Trang:Nam Hai di nhan liet truyen.pdf/116

Văn thư lưu trữ mở Wikisource
Trang này đã được hiệu đính, nhưng cần phải được phê chuẩn.
— 116 —

— Con là Đệ-nhị-tiên-cung phải đầy xuống trần, nay đã hết hạn, lại phải lên chầu Thượng-đế. Cha mẹ có âm-công, đã vào sổ tiên, mai sau cũng được đoàn tụ, không can gì phải lo sầu.

Nói đoạn thì lại biến mất.

Chàng Đào-lang tự khi uyên bay, trăm phần sầu não. Một đêm đang ngồi ngâm thơ giải phiền, sực thấy Tiên-chúa đến, chàng kia níu lấy kể lể nỗi đoạn sầu khổ. Tiên-chúa khuyên giải hết điều rồi lại biến mất.

Tự bấy giờ đi mây về gió, chơi xem phong cảnh các nơi. Một hôm, đến tỉnh Lạng-sơn, trông thấy có ngọn chùa trên núi, mới lên xem cảnh, rồi ra nghỉ mát dưới gốc cây thông, gẩy đàn ngợi hát. Xảy có Phùng-khắc-Khoan (Trạng Bùng) đi sứ về qua. hai bên đối báp với nhau.

Phùng-công đọc trước một câu rằng:

Tam mộc sâm đình; tọa chước hảo hề nữ tử.

(三 木 森 庭 坐 著 好 兮 女 子)

Tiên chúa ứng thanh đối rằng:

Trùng sơn xuất lộ; tẩu lai sứ giả lại nhân.

重 山 出 路 走 來 使 者 吏 人.

Phùng-công lại đọc rằng:

Sơn-nhân bằng nhất kỉ; mạc phi tiên nữ lâm phàm.

(山 人 憑 一 几 莫 非 仙 女 臨 凡).

Tiên-chúa lại đọc rằng:

Văn-tử đái tràng cân; tất thị học-sinh thị trướng.

(文 子 帶 長 巾 必 是 學 生 侍 帳).

Phùng-công thấy vậy, muốn hỏi lai lịch thì đã biến mất rồi, chỉ thấy gỗ nằm ngổn ngang, hình ra bốn chỗ: « Mão khẩu công chúa » (卯 口 公 主)[1], và có một cây gỗ dựng viết bốn chữ « Thủy mã dĩ tẩu » (水 馬 已 走)[2]. Phùng-công đoán ý tứ các chữ ấy, biết là Liễu-hạnh công chúa nhờ mình khởi công sửa sang chùa ấy, mới xuất tiền cho dân sửa sang.


  1. Gỗ ngổn ngang là hình chữ mộc . Chữ mão chữ khẩu gia thêm chữ mộc, là chữ Liễu hạnh
  2. Thủy là chữ Phùng ; Dĩ tẩu là chữ khởi , ý là bảo họ Phùng khởi công.