— Con là Đệ-nhị-tiên-cung phải đầy xuống trần, nay đã hết hạn, lại phải lên chầu Thượng-đế. Cha mẹ có âm-công, đã vào sổ tiên, mai sau cũng được đoàn tụ, không can gì phải lo sầu.
Nói đoạn thì lại biến mất.
Chàng Đào-lang tự khi uyên bay, trăm phần sầu não. Một đêm đang ngồi ngâm thơ giải phiền, sực thấy Tiên-chúa đến, chàng kia níu lấy kể lể nỗi đoạn sầu khổ. Tiên-chúa khuyên giải hết điều rồi lại biến mất.
Tự bấy giờ đi mây về gió, chơi xem phong cảnh các nơi. Một hôm, đến tỉnh Lạng-sơn, trông thấy có ngọn chùa trên núi, mới lên xem cảnh, rồi ra nghỉ mát dưới gốc cây thông, gẩy đàn ngợi hát. Xảy có Phùng-khắc-Khoan (Trạng Bùng) đi sứ về qua. hai bên đối báp với nhau.
Phùng-công đọc trước một câu rằng:
— Tam mộc sâm đình; tọa chước hảo hề nữ tử.
(三 木 森 庭 坐 著 好 兮 女 子)
Tiên chúa ứng thanh đối rằng:
— Trùng sơn xuất lộ; tẩu lai sứ giả lại nhân.
重 山 出 路 走 來 使 者 吏 人.
Phùng-công lại đọc rằng:
— Sơn-nhân bằng nhất kỉ; mạc phi tiên nữ lâm phàm.
(山 人 憑 一 几 莫 非 仙 女 臨 凡).
Tiên-chúa lại đọc rằng:
— Văn-tử đái tràng cân; tất thị học-sinh thị trướng.
(文 子 帶 長 巾 必 是 學 生 侍 帳).
Phùng-công thấy vậy, muốn hỏi lai lịch thì đã biến mất rồi, chỉ thấy gỗ nằm ngổn ngang, hình ra bốn chỗ: « Mão khẩu công chúa » (卯 口 公 主)[1], và có một cây gỗ dựng viết bốn chữ « Thủy mã dĩ tẩu » (水 馬 已 走)[2]. Phùng-công đoán ý tứ các chữ ấy, biết là Liễu-hạnh công chúa nhờ mình khởi công sửa sang chùa ấy, mới xuất tiền cho dân sửa sang.