Trang:Nam Hai di nhan liet truyen.pdf/20

Văn thư lưu trữ mở Wikisource
Trang này đã được hiệu đính, nhưng cần phải được phê chuẩn.
— 20 —

Năm Nhâm-tuất, (năm thứ 7 vua Gia-khánh nhà Thanh lịch tây 1802) kỷ nguyên Gia-long, đưa thư sang Tàu định quốc hiệu là Nam-việt, nghĩa là ngài mở rộng được cõi Nam-kỳ, mà có cả toàn việt. Nhưng vua Gia-khánh lại đổi lại để chữ Việt trên chữ Nam, cho là triều Nguyễn ta trước chiếm có đất Việt-thường, nay có cả cõi An-nam. Ngài đưa thư sang chiết biện mãi rồi mới đặt quốc-hiệu là Việt-nam.

Ngài mở mang cõi nước Nam ta thêm rộng ra được 6 tỉnh Nam-kỳ, buổi đầu rất là gian lao, nào là đặt quan Điền-tuấn; mở đất đồn điền; phân hoạch địa giới Gia-định Định-tường; đào thông ngòi lạch Hà-tiên, Châu-đốc. Lại còn đặt ra tòa đệ-chỉnh ở Bắc-thành, định ra đê-thức; soạn ra bộ nhất thống địa-dư; định ra điều lệ hương đảng; định phép tuyển-duyệt; nghiêm cấm đổ bác; định luật lệ 398 điều. Đó là qui-mô khai-quốc, kể lược qua như vậy. Lại còn công việc ngài giao thiệp với nước Xiêm-la; thông hiếu với nước Đại-pháp; xử chí nước Chân-lạp, Vạn-tượng, đều qui phục cả.

Công đức ngài kiêm cả trung-hưng, sáng nghiệp triều Nguyễn ta, trong 22 năm mới thu phục được cựu-kinh, lên ngôi được 18 năm, thọ 58 tuổi, miếu hiệu là Thế-tổ Cao hoàng-đế, ngài thực là một vị vua khai sáng anh-hùng.


CHƯƠNG THỨ II

Các bậc danh thần

8. — Lý-thường-Kiệt

Thường-Kiệt tự là Hi-liệt, người làng Thái-hòa huyện Thọ-xương, (tức là thành phố Hà-nội bây giờ), có tài kiêm cả văn võ. Khởi thân làm Thái-giám. Đến đời vua Nhân-tôn nhà Lý, làm đến chức Thái-Úy. Trong năm Thái-ninh, nước Chiêm-thành đến quấy nhiễu xứ Nghệ-an, vua sai Thường-Kiệt cầm quân đi đánh, Thường-Kiệt đánh đuổi về mãi nước Chiêm, lấy được châu Bố-chính, châu Địa-lỵ và châu Ma-linh, mới sai vẽ địa-đồ ba châu ấy, đổi châu Địa-lỵ làm phủ Tân-bình, châu Ma-linh