Trang:Nam Ky phong tuc nhon vat dien ca 1.pdf/14

Văn thư lưu trữ mở Wikisource
Trang này đã được hiệu đính, nhưng cần phải được phê chuẩn.
— 11 —

Phố phường vừa đũ không nhiều, Vật ăn cũng ít mỷ miều thanh tân.
Dân cư phong tục kiệm cần, Hể nơi trù mật là gần thị thôn.
Đường-sứ, Đồng-váng, Đồng-môn, Bến-gỗ, Bến-cá, Chợ-đồn, Chợ-dinh.
Đồng-môn, Bà-ký, rất xinh, Vườn cau mịch mịch tươi xanh cả ngàn.
Phước-lai, Phước-kiển, mấy làng, Phong thuần tục mỹ dân nhàn sanh phương.
Lắm nhà bền vững cột rường, Lắm trang chữ nghĩa văn chương học hành.
Người xưa khoa hoạn có danh, Ông Đào-trí-Phú đành rành bực sang.
Bị cang án, thuở Tiên-hoàng, Phải chăng ai tỏ ưng oan cho cùng.
Ông Hiệp-Bá tánh khiêm cung, Vợ chồng nhơn đức một lòng như nhau.
Thổ sãng thứ nhứt là cau, Cau khô xứ ấy ăn lâu đẹp tình.
Xa xuôi cách trở hãi trình, Ít khi cá biễn dùng mình cá sông.
Những đồ quã phẫm hàng bông, Với đồ lò gốm đũ dùng trong dân.
Các nơi đình miểu thôn lân, Xuân kỳ thu báo lệ thần nghiêm trang.
Quan hôn tang tế kỷ cang, Vãn lai thù tạt bĩ bàn lể nghi.
Thạch-nghê đầu giác dị kỳ, Biên-hòa tục ngữ kêu thì ông Nghê.
Lớn hơn mười trượng chĩn ghê, Nước ròng cạng thấy tư bề y nguyên.
Cù-lao-phố chỗ linh thiên, Xưa có cầu ván bắt chuyền ngang sông.
Lý-Quan người chệt xưng hùng, Đại-vương Đông-phố vẩy vùng cỏi riêng.
Lê Cảnh-Hưng thuở bát niên, Chàng bèn đốt phá cầu liền cháy tiêu.
Sự bình bất Phục tu kiều, Bến đò đưa rước mơi chiều lại qua.
Sau giặc Tây-sơn vào ra, Đóng đồn gần đó kêu ra Chợ-đồn.
Thạch-nang chỗ rất hãi hồn, Đá hàng một dảy tiếng đồn thuở nay.
Hẹp vừa lòng lạch giữa ngay, Ghe đi lên xuống người rày đều nao.
Tới mùa lạo thủy lộn đào, Chảy đứt đuôi rắn ra vào sợ ghê.
Miểu quan Chưởng-Lễ dựa kề, Lý-Ngư có lúc khuya về hiện thân.
Nhảy nhào hụp lặng lăng xăng, In như hình tới trước sân lạy mừng.
Thiệt là Thượng-đẳng-linh-thần, Công lao khai quấc xa gần tạt ghi.
Bây giờ nền mới cải di, Hãy còn nền củ vậy thì y nguyên.
Tốt thay chùa núi cảnh riêng, So bề thanh lịch là miền Bữu-phong.
Đại-giác chùa có sắc phong, Hỏa hương sum thạnh phật đồng lớn cao.
Có người đui tối tầm phào, Lên hòn Chiêu-thới ước ao trụ trì.
Tay cùi mắt chẳng thấy chi, Thiện nam tính nữ đều thì xúm lo.
Thường đem ve nước tới cho, Nữa thì người uống nữa cho bùa về.
Ví dầu bịnh hoạn ủ ê, Uống vào khỏe mạnh hơn bề sâm nhung.
Xóm làng tin cậy vào lòng, Cất cho am tự dưởng dung tu hành.
Núi Lò-gạch chỗ đá xanh, Những người nước Hẹ dinh sanh dập dều.
Trời cho hang lợi mĩ miều, Giúp dân ngoại-quấc biết nhiêu bạc tiền.
Làm ra vạn vạn thiên thiên, Bởi bàng tay trắng nhọc siêng xẳng đào.
Núi Cù-lao-rùa trên cao, Có lưởi tầm sét đời nào lưu lai.
Hình như lưởi búa không sai, Nguyên là cốt đá khen ai khéo mần.
Bến-cá vàm dưới cũng gần, Dài theo mé nước thói dân trở đường.
Bình-thạnh, Bình-ý, Thôn hương, Lò đường cát trắng thường thường biết nhiêu.