Trang:Nam Ky phong tuc nhon vat dien ca 1.pdf/17

Văn thư lưu trữ mở Wikisource
Trang này đã được hiệu đính, nhưng cần phải được phê chuẩn.
— 14 —

Bạc ngàn đâu đậu ê hề, Cất ra miễu vỏ phải bề lịch xinh.
Phụng thờ bà Chúa-thai-sanh, Sắp bày nghi tiết kỉnh thành nghiêm trang.
Liểu bồ tư chấc diệu dàng. Khuê-trung-nghĩa-hội danh càng rạng danh.
Các nơi thôn xả miễu đình, Qui mô tuy kém hiễn linh cũng nhiều.
Chợ đông người nhóm dập dều, Chợ-thủ nguyên trước cựu triều Bến xe.
Người nhờ đất chở trời che, Ngày nay đông đảo cảnh khoe mĩ miều.
Tốt thay phong cảnh Lái-thiêu, Bông hoa cây trái vật đều món ngon.
Cây cao trên nổng thon von, Bóng im gió mát bon bon tư bề.
Nhà-thờ Thiên-chúa chĩnh tề, Nhà-cha nhà-phước phủ phê trong ngoài.
Gội nhuần ơn chúa quản khai, Thảy người trong họ ai ai cũng nhờ.
Đồng-nam đồng-nữ trẻ thơ, Đọc kinh xem lể tư cơ sẳng sàng.
Lại thêm trường học rỏ ràng, Dạy người câm điết phép troàn nơi tay.
Khéo bày qui cũ rất hay, Bề trên công đức sánh tày tái sanh.
Điềt câm còn biết học hành, Lịch thay phong hóa đã đành làm gương.
Tân-thới có tích dị thường, ông Huỳnh-công-Nhẫn chuyện đương ràng ràng.
Xưa làm thầy pháp tiếng van, Tứ trong Bưng ở chẳng màng thân danh.
Cọp hùm thuở ấy tung hoành, Đi đêm thì sợ tai sanh bất kỳ.
Những người tâm tối ra đi, Tới Bưng xin phép vậy thì Huỳnh-công.
Nước miếng nhổ vào tay không, Ấy là phép lạ của ông cho về.
Thảy đều an ỗn không hề, Ít năm ông lại về quê đã rồi.
Người thương kẻ nhớ ngậm nguồi, Khẩn cầu nơi mả tới lui dập dều.
Vái đâu đặng đó rất nhiều, Rồi đem lể cúng biết nhiêu là người.
Hương đăng trà quả sốt tươi, Vào ra kễ xiết mấy mươi bộ hành.
Mả kề trảng các trắng tinh, Tại cầu Bưng-bố anh linh vô hồi.
Quả nhiên tú khí tài bồi, Thiên thu huyết thực nhứt đôi nhưởn tiền.
Thiệt là khả tát cữu nguyên, Sanh tiền tữ hậu phận riêng giúp đời.
Nổi ra danh giá một nơi, Phải là đứng giữa đất trời khuôn viên.
Xóm làng chung cọng bạc tiền, Chở vôi đá tới xây yên dai thành.
Hồn ông mách bảo chẳng đành, Nay còn vôi đá để xanh quanh đường.
Những nơi tư thục các trường, Hãy roi dấu trước văn chương ít nhiều.
Thầy thuốc kể biết bao nhiêu, Tứ-quân, Bại-độc, Tiêu-diêu, hốt hoài.
Thập-toàn, Bát-vị, An-thai, May thầy phước chủ thang bài như chơi.
Lâu lâu lể tỗ thiệp mời, Đòi tiền thân chủ vốn lời đủ xây.
Trường quan cách dạy chữ tây, Đã hay mẹo mực lại hay vẻ vời.
Thông minh người sẳng tánh trời, Lần qua trường lớn cập thời công danh.
Quấc gia dưởng sỉ hậu tình, Sắm ra có chỗ cho mình hiễn vinh.
Dĩa nghiên ngòi viết đua tranh, Làm nên ấu học tráng hành mới ngoan.
Mười hai tỗng trăm dư làng, Ghe nhà khéo léo lịch sang phải trò.
Xe bò, xe ngựa, tàu đò, Tứ dân nghệ nghiệp ấm no vững vàng.
Ghe đua êm ái nhẹ nhàn, Bình-nhâm, Tân-thới hai làng hậu tiên.
Làng Vĩnh-trường, suối Tham-miêng, Đất như bột trắng vò viên mịn mà.
Các nơi lò chén gần xa, Tới chở đất ấy vào ra liền liền.