Trang:Nam Ky phong tuc nhon vat dien ca 1.pdf/18

Văn thư lưu trữ mở Wikisource
Trang này đã được hiệu đính, nhưng cần phải được phê chuẩn.
— 15 —

Thuở xưa có mạch nước tiên, Uống hay giải cứu bịnh phiền người ta.
Đặt tên là nước Mội-bà, Cất bên cái miễu thờ bà Linh-sang.
Xã-Hợi người tánh quá ngang, Thấy làm những chuyện dị đoan cũng kỷ.
Ra tay lấp mội ấy đi, Nước tiên bặc mất còn chi mà cầu.
Làng kiện Xã-Hợi ở tù, Bỏ hoan miễu đó mịt mù đã lâu.
Lái-thiêu, Chợ-búng, Bưng-cầu, Trong ba chợ ấy trước sau đông dầm.
Chơn-thành, Hưng-định Bình-nhâm, Vẻn van nhà chợ cất nhằm chỗ cao.
Tỗng-duơn, An-phú Ông-trao, Tỗng-thu, bốn chợ phú hào biết nhiêu.
Nhà-thờ thủ rất mĩ miều, Trẻ học quấc-ngữ mơi chiều a bê.
Có tên Bá-Đãnh dòng Lê, Ngoài thời riêng đặt hiệu đề Huyện-thi.
Người đà âm cảnh từ qui, Chừ luôn nói lại vậy thì nghe chơi.
Kiếm cung lăm chống chỏi trời, Tách miền Kinh-bắc vào nơi Phú-cường
Bỗn sanh hoanh liệc phi thường, Bấy năm mưu mật tư lương luận đàm.
Hóa gia chuyện chẳng dể làm, Tiết thay xanh vạt mùi cam hơn đường.
Xưa nay thần khí đế vương, Cượng cầu thì mắc tai ương khốn cùng.
Gương cho những khách gian hùng, Thảo cha ngay chúa dè lòng kỷ cang.


Tây-Ninh

Tây-ninh phong cảnh thi:

Tây-ninh địa cãnh giáp Mên man,
Bố án hai tòa đặt đủ quan.
Miễu-cã anh linh nơi chợ Trãng,
Điện-bà hiễn hít chốn Linh-sang.
Hương đèn bông trái người năng cúng,
Cây ván dầu chai nghiệp cũng nhàn.
Làng tỗng nơi nơi còn thói cựu,
Xứ tuy rừng núi lắm khôn ngoan.

Tây-ninh đất lắm hoan nhàn, Coi ra bưng hố hầm hang tư bề.
Rẫy trồng mía, thuốc, đậu, mè, Cây bàn đương điệm bán về các nơi.
Dầu chai gỗ ván quá chời, Lúa sạ ba tháng lộc trời phì nhiêu.
Trái cây không có bao nhiêu, Mây rừng các thứ thiệt nhiều lắm thay.
Châu thành đường sá sạch ngay, Hai ty phan, niết, sắp bày nghiêm trang.
Lính tây đồn lập kỷ cang, Phố phường đông đảo dọc ngang mấy hàng.