Những đồ sô nhiểu lụa là, Để đâu còn đó ai mà tham gian.
Phong thổ ít chuyện bạo tàn, Ít khi dịch khí tai nàn hại dân.
Các giồng mấy chổ cư dân, Lớn nhỏ hương chức cựu tân thiệt thà.
Thần từ miểu vỏ gần xa, Nghi văn tế lể cũng là lệ xưa.
Chữ nhu còn hãy dây dưa, Tôn ty phép tắc vừa vừa dể coi.
Cang thường luân lý dấu roi, Quan hôn tang tế tục noi theo hoài.
Nhà thờ giảng đạo hôm mai, Gội nhuần ơn Chúa chẳng sai tấm lòng.
Lái-Triều tiếng cũng phú ông, Sanh tiền thường cúng của trong thánh-đường.
Phía quan phía tổng có trường, Mấy thầy giáo tập dạy thường siêng năng.
Tây-ninh phong tục làm ăn, Nhờ trong rừng núi bổn căng bạc tiền.
Thợ rừng sanh lý rất siêng, Dầu chai, sáp mật, đi miền bên Phan.
Xứ thời không mấy giàu sang, Thiệt thà bền chắc dân an nghiệp nhàn.
Lịch thay phong cảnh Trảng-bàn, Lợi nhờ rẩy thuốc bạn hàng quá đông.
Tên ông Tề người biết cùng, Thuốc ngon trử bán đồn trong xóm làng.
Nhơn dân đông đảo an nhàn, Có ngôi giếng-mạch rỏ ràng ngọt thanh.
Tự nhiên một chổ thiên thành, Cạng mà mạch tốt nước sanh đời đời.
Xanh quanh nội chợ các nơi, Người ta ăn uống thảnh thơi lạc tình.
Thiện nam tính nử lòng thành, Chung tiền sửa đắp lịch xinh một tòa.
Chánh trung hương hỏa thờ Bà, Ngoài hai hộc nước xây ra có ngằn.
Xóm riềng kẻ tắm người ăn, Lớp lui lớp tới lăng xăng chặc đường.
Nước đâu trong mạch thường thường, Chảy ra hai hộc ngày trường dinh dư.
Gần xa bốn phía thôn khư, Uống ăn khoẻ mạnh dân cư cậy nhờ.
Giữa chợ có làm miểu thờ, Thờ ông cả Trước đến giờ linh thiên.
Phố mười chín căng phía tiền, Phía sau mười chín khuôn viên kỷ càng.
Thuở xưa gầy dựng Trảng-bàn, Bởi ông cả Trước gian-nang nhiều bề.
Nay thành một chỗ chỉnh tề, Đình chùa phố xá phủ phê trong ngoài.
Công ơn người thảy cảm hoài, Chung nhau lập miểu thờ ngài thuở nay.
Mỗi năm kị lạp đến ngày, Nghi văn phẩm tiết đặt bày khiết tinh.
Tứ bàn tổng xả xanh quanh, Cử kêu tên Trước kỉnh thành không sai.
Tiền-hiền sự nghiệp lâu dài, Như ông cả Trước nào ai dám bì.
Tại làng Gia-lộc vỉnh vi, Tỗng Hàm-ninh-hạ nguy nguy miểu đường.
Mả ngài tế tảo thường thường, Bùng-binh, Bến-súc, là đường mộ cơ.
Ở trong đất nước cỏi bờ, Khá khen hương chức chẳng ngơ tấm lòng.
Thủy nguyên mộc bổn thỉ chung, Biển dâu dời đổi cũng không phụ phàn.
Thương vì kinh sử cửu oan, Mà gương trung hậu lại càng tỏ soi.
Phong thuần tục mỷ dể coi, Trăm ngàn thu dưới dấu roi cang thường.
Nhiều tay nhà cữa cột rường, Nhiều tay danh tiếng hào cường xả thôn.
Nhiều tay sang trọng quyền môn, Nhơn cơ nghỉa chĩ bảo tồn cổ phong.
Tây-ninh đất núi minh mông, Lợi nhờ thỗ sảng điệp trùng ván cây.
Nhơn dân ăn chắc mặt dày, Thờ thần chuộng phật lòng hay kỉnh thành.
Hềm vì tăng chúng gian manh, Tham tâm trục lợi mong sanh thói tà.
Kiết-ma-thoại, chùa Điện-bà,
Đương kiêm hiện tại thật là vô lương.
Trang:Nam Ky phong tuc nhon vat dien ca 1.pdf/20
Giao diện
— 17 —