Ghe buôn bến ấy ra vào, Mua bán ào ào đông đảo quá tay.
Bình-lợi cầu sắt mới xây, Đưa qua kéo lại máy quây nhẹ nhàn.
Một đường xe lữa rỏ ràng, Một đường xe ngựa một đường người đi.
Bề trường kễ hết y nguy, Hai trăm bãy chục sáu thì thước tây.
Bề hoành bảy thước hai tây, So cầu Lục-tỉnh cầu nầy lịch hơn.
Chợ thời Gò-vắp, An-nhơn, Bà-chiễu, Bà-quẹo, Cây-lơn, Thị-nghè.
Hốc-môn, Bà-điễm, Quán-tre, Thủ-thiêm, Long-kiễn, lại kề Phú-xuân.
Phú-thọ phong thủy đương hưng, Tiềm long diễm huyệt người từng chuộng yêu
Mã mồ chôn đó cũng nhiều, Nhà giàu Chợ-lớn thảy đều có chôn.
Đất tốt yên ỗn linh hồn, Thiên-hạ tiếng đồn kiết địa giàu sang.
Vườn-trầu mười tám thôn trang, Rỏ ràng một cõi dọc ngang nghạnh cường.
Đôi phan nghịch lý loạn thường, Nghe theo ông Hớn quên đường quấc gia.
Dậy giết ông Đốc-phủ Ca, Xóm làng náo động trẻ già hoản kinh.
Đặt vè ai khéo trớ trinh, Đỗ cho thù oán mà thành chuyện ra.
Thỗ sãng trầu thuốc với trà, Người người siêng sắng nhà nhà làm ăn.
Lớp xe chuyên chở lăng xăng, Lại thêm lớp gánh lớp bưng nhảy tràng.
Nọc phân trữ để sẳng sàng, Tại nơi Chợ-vựa các làng tới mua,
Trầu thuốc bán đủ bốn mùa, Nhơn dân nghệ nghiệp cứ đua làm giàu.
Thánh-đường nghiêm chĩnh trước sau, Bề-trên Linh-mục sữa trao mối giềng.
Trải xem Thập-bát-phù-viên, Một nơi Bà-điểm khuôn viên mỉ miều.
Ngựa hay mua sắm quá nhiều, Mỗi kỳ đua ngựa thảy đều có ăn.
Hai mươi hai hạt xa gần, Tiếng ngựa Bà-điểm ai bằng đặng đâu.
Thần từ phong thủy nhiệm mầu, Có phường Trinh-nữ đã lâu tồi tàng.
Thị-thơ nguyên bị cường gian, Giữ mình trinh thục chết oan linh hồn.
Nhờ vua đại đức chí tôn, Biển vàng sắt tứ vỉnh tồn thinh danh.
Lập phường đề chữ nữ trinh, Lâu năm vôi ngói tan tành rã hư.
Biễn vàng một tấm còn dư, Đem vào thần miễu thờ chừ bên hiên.
Xuân kỳ thu báo thường niên, Cỗ bàn phụ cúng liền liền chẳng sai.
Đất giồng cao ráo thanh bai, Nhà dân cất ngói trong ngoài dọc ngang.
So cùng tứ cận các làng, Mình Tân-thới-nhứt rỏ ràng có hơn.
Tiếng đồn gà đá chưng trơn, Thời gà Bà-điễm lắm cơn ăn tiền.
Đình chùa miễu vỏ linh thiên, Mỗi người mỗi có đạo riêng của mình.
Chánh-chung cai trị công bình, Phần ai nấy giữ thích tình hương thôn.
Thuở trước chỗ Tây-thới đồn, Là nơi Tân-thới-nhì thôn địa phần.
Có mã ông quan trào tân, Người xưa tữ trận vi thần tận trung.
Nay còn thạch mô ghi công, Bên đường qua lại người đồng xem trông.
Gần đó có bưng Cầu-bông, Ấy kinh Tầm-lạt ngã sông mới đào.
Hai bên ruộng khẫn biết bao, Thã lờ đặt lọp rạch ao bộn bàn.
Thông qua Bến-lức Thuận-giang, Ghe đi buôn bán xoàn xoàn vô ra.
Cựu-trào có đồn Rạch-tra, Hoành đối Sông-búng ngang qua thủ phần.
Cách tỗng một nơi thủy tân, Vĩnh-an-tây xã xa gần đều hay.
Bến-vua kêu tiếng lạ thay, Kề bên Bàu-chứa người rày thấy nghe.
Trang:Nam Ky phong tuc nhon vat dien ca 1.pdf/29
Giao diện
— 26 —