Trang:Nam Ky phong tuc nhon vat dien ca 1.pdf/30

Văn thư lưu trữ mở Wikisource
Trang này đã được hiệu đính, nhưng cần phải được phê chuẩn.
— 27 —

Có mã ông La-rê-Nhe(Lareynière), Thuận-kiều thẳng xuống giăng tre Chí-hòa.
Ngài xưa tá vận quấc gia, Đường tên mũi đạn mình đà quyên sanh.
Nay còn mộ chí đành rành, Hùng danh tạc để sữ xanh chẳng già.
Cách xuống bốn ngàn thước xa, Có cây thạch-trụ xây ra bên đường.
Bao nhiêu tữ sĩ chiến trường, Chữ tây chạm khắc tỏ tường sự công.
Ngó lên sở-mía giữa đồng, Một tòa cao vọi rộng thông tư bề.
Ông Lê-phát-Đạt cúng về, Tốn hao của ấy ước kề ba muôn.
Làm nhà hưu trí giải buồn, Các cha bỗn quấc luôn luôn dưởng già.
Thiệt là hùm chết để da, Người chết để tiếng cũng đà vẹn xong.
Trương-gia từ, tại Hanh-Thông, Tiên nhơn phần mộ ở trong chĩnh tề.
Qui mô sắp đặt tư bề, Để gương hiếu thuận truyền về lớp sau.
Chữ rằng hồ chánh thủ khâu, Thủy nguyên mộc bỗn một câu ghi lòng.
Chùa Tập-phuớc có sắt phong, Lữa hương sánh với non sông còn hoài.
Giác-lâm chùa tỗ sơ khai, Tục kêu Cẩm-đệm lâu dài thạnh sung.
Thuở xưa Hoài-Đức Trịnh-công, Viên-quan-hòa-thượng cũng đồng bạn chơi.
Kẻ Vương người Phật theo đời, Khi sau hội ngộ có lời tặng ngôn.
Một bài cỗ điệu ngũ ngôn, Trịnh-công thủ bút thuyền môn rỏ ràng.

Bài ngũ ngôn cổ điệu của Trịnh-công ở sau đây: