Bước tới nội dung

Trang:Nam Ky phong tuc nhon vat dien ca 1.pdf/39

Văn thư lưu trữ mở Wikisource
Trang này đã được hiệu đính, nhưng cần phải được phê chuẩn.
— 36 —

Có chỗ cân giờ nhựt trung, Trên tàu Ông-thượng đặt vòng Địa-la.
Còn năm ba phút vậy mà, Đem đồ hiệu lịnh kéo qua cột cờ.
Đợi đến đúng mười hai giờ, Đồ kia rớt xuống súng hờ giựt dây.
Nổ lên một tiếng vang vầy, Châu-thành bốn phía sum vầy giấc trưa.
Vườn-thú cao thấp nhặt thưa, Cỏ cây các món vừa vừa sum sê.
Thượng cầm hạ thú bộn bề, Côn trùng lân giáp kiếm về nhốt nuôi.
Khi nào thừa hứng chơi vui, Quan dân tới đó cũng nguôi phiền tình.
Một tòa Đề-đốc đại dinh, Trướng hùm nghiêm chĩnh chỗ thành nguơn nhung.
Hảng tàu hai sở rộng thông, Một sở nhà-rồng một sở Nam-vang.
Hảng bạc trữ hạc muôn vàng, Nhà máy Xóm-chiếu gạo tràng viễn phương.
Hảng xe-lữa-nhỏ hai đường, Một đường Chợ-lớn một đường Hanh-thông.
Bộ hành lên xuống cũng đông, Nhắm sau đây cũng thạnh sung như thường.
Hảng xe lữa lớn hai đường, Một đường Chợ-lớn một đường Mỷ-tho.
Thiếu chi các hảng buôn to, Vạn thiên ức triệu cơ đồ kinh dinh.
Thiếu chi đường sá hiệu danh, Kể sao cho xiết linh tinh mọi bề.
Khá khen cho hảng bảo kê, Bảo thuyền bảo phố chĩnh ghê bảo người.
Công-ti tiệm biết mấy mươi, Hướng-đương nha-phiến nói cười xuê xan.
Cà-phe (café) bán các nẻo đường, Thuốc bao đỏ trắng xanh vàng lịch sang.
Máy nước phong-tên (fontaine) kỷ càng, Nắng thời xe nước tưới chang ướt dầm.
Chỗ coi các sở Kiểm-lâm, Giấy tờ sỗ sách mỗi năm liền liền.
Gỗ cây thiên vạng bạc tiền, Nam-kỳ lục-tĩnh mối giềng phân minh.
Phan-sa, quấc-ngữ nhựt-trình, Mỗi tuần in bán sự tình lăng xăng.
Gia-định-báo là công văn, Phát ra các hạt lệ hằng không sai.
Dọc ngang biết mấy lầu đài, Sở kia sở nọ kể hoài xiết đâu.
Phố phường cao thấp cạng sâu, Mặt tiền trong hẻm trước sau ở đầy.
Ước chừng hơn mười năm nay, Đờn bà nước chệc đỗi thay qua thường.
Bên Tàu lắm lúc nhiểu nhương, Dân đi các nước tiềm phương ăn làm.
Tách muôn ngàn dặm sang Nam, Đem thân bồ liểu lòng cam xa vời.
Sài-gòn Chợ-lớn hai nơi, Chệc trai với xẩm thảnh thơi ở trường.
Thói hay cúng đốt đèn hương, Tam nguơn tứ quí kỳ nhương liền liền.
Đoan-dương, trùng-cữu thường niên. Đêm khi khất-xảo ngày miền thanh-minh.
Trung-thu, Đông-chí rập rình, Lể kia lể nọ hậu tình biết bao.
Người sanh bất luận nước nào, Cũng đều phong tục tập vào thói quen.
Tấm lòng thành kĩnh khá khen, Lựa là giàu khó sang hèn mà chi.
Bến-thành chợ rộng tứ vi, Mấy cữa hàng xén ở thì luôn năm.
Chỗ ăn chỗ bán chỗ nằm, Ba-tăng (Patente) tiền thuế bạc trăm không cầu.
Ngoài thời cà mướp cau trầu, Chuối dưa măng mít bông rau cải hành,
Bắp khoai cam quít ớt chanh, Gà giò vịt đẻ cu xanh tôm càng.
Bành trái biết mấy chục hàng, Bò heo thớt thịt nhẩy tràng dọc ngang.
Cua gạch cu con ra ràng, Gà lộn trái vải rượu càng ngon xa.
Mấm nêm, mấm ruốt, khô tra, Tàn-ô, xà lách, bạt hà tía tô.
Bí rợ nấu với dừa khô, Măng le mấm ruốt vật mô sánh bằng.