Trang:Nam Ky phong tuc nhon vat dien ca 1.pdf/48

Văn thư lưu trữ mở Wikisource
Trang này đã được hiệu đính, nhưng cần phải được phê chuẩn.
— 45 —

Đồ ông Hộ-Bảo phủ phê, Người nay đã mất mà nghề còn quen.
Mười giờ tối, đi có đèn, Phòng quân gian tế lộn xen u hòa.
Kể ra các chỗ danh gia, Thuở đời quan cựu có nhà Trịnh-công.
Ngài xưa tá vận Gia-Long, Tên là Hoài-Đức hiếu trung trọn nghì.
Lưu truyền tập Cấn-Trai thi, Gia-định Thông-Chí đều thì ích nhơn.
Phải là phẩm trọng Đẩu-sơn, Dưới trăm năm hẫy còn cơn cãm hoài.
Ông Hộ-Vấp danh chẳng phai, Giàu mà nhơn đức ít ai sánh bằng.
Nhớ khi Ngủ-quản đạo dân, Bị cơn biến loạn cơ bần lưu li.
Cả đoàn trốn đến Nam-kỳ, Đói no sống thác còn gì mà mong.
Ông Hộ xót xa trong lòng, Xin quan cho phép chẫn cùng đạo dân.
Bạc ngàn một thuở thi ân, Mà nay tiếng tốt xa gần ngợi danh.
Roi còn con cháu hiển vinh, Cho hay tích đức minh minh đến rày.
Ông Đổ-hửu-Phương ngày nay, Hưỡng nhờ phước thọ sum vầy thất gia.
Con trai lớn, vợ Lang-sa, Tên là cậu Chẩn nết na hiền lành.
Mình không ỷ thế quyền hành, Lại thêm có đức song sanh trai hiền.
Hầu cận Soái-gia toàn quyền, Thứ nam thi đậu nhãn tiền hiển van.
Con gái là cô Ba-Nhàn, Lấy chồng người nghệ tên Hoàng-trọng-Phu.
Cũng dòng khoa mụt văn nhu, Nay làm Tổng-đốc hoạn du Bắc-kỳ.
Nhà sang vật quới thiếu chi, Cập hàng dưỡng lảo tứ vi đá liền.
Tánh hay đải sỉ chiêu hiền, Một năm rước khách tốn tiền ngàn muôn.
Ngựa xe trước cửa luôn luôn, Phãi nơi phần phước vạt chuông một nhà.
Vẹn tròn danh giá tiếng xa, Bài thơ hưu trí trẻ già đọc van.
Quả nhiên phước lộc thọ toàn, Tiên nhơn thế trạch ngày càng lưu phương.
Tân-hòa sung thạnh thôn hương, Nhà-thờ Chợ-quán đống lương chỉnh tề.
Tốt tươi bông trái tư bề, Xứ nhiều lò đúc thật nghề tinh chuyên.
Một tòa Nhà-phước mối giềng, Ruộng vườn đất cát bạc tiền dinh dư.
Phãi là một chổ thiện từ, Phãi là vỉnh viển căn cư đời đời.
Đồng nam đồng nử thảnh thơi, Sớm khuya ăn học cập thời gia công.
Các bà nuôi dạy hết lòng, Tu hành phước đức ơn đồng thân sanh.
Nhà thương một sở thinh thinh, Giúp người bịnh hoạn dưỡng tình nhàn thân.
Đội nhờ phép nước thi ân, Làm ra có chổ cứu dân tai nàn.
Thuở kia ông Đốc-học quan, Tên Trương-vỉnh-Ký tánh càng hiền lương.
Tiếng tâm chử nghĩa ngoại phương, Chí công đi học dặm trường non sông.
Các quan thọ nghiệp rất đông, Truyện thơ các món dịch dùng quấc âm.
Dựng cờ giữa chốn Từ-lâm. Tiên phong đạo cốt thâm trầm ung dung.
Ơn vua Đồng-Khánh tặng phong, Thi chương ngự tứ Nam-trung ẩn-hiền.
Nay còn con nối mối giềng, Một nền lư mộ cận biên Thánh-đường.
Người đều hoài cảm tư lương, Đấu roi sánh vở tỏ tường mấy pho.
Thương ông Tổng-Nhiệm Cầu-kho, Mấy năm sáng tạo cơ đồ dọc ngang.
Công-ti lập tiệm sửa sang, Đặt người coi sóc lang chang bộn bề.
Sắm tàu hai chiếc chỉnh tề, Dạo chơi các sở khi về khi đi.
Bại thành há kể làm chi, Song le lạm dụng bỡi vì phi nhơn.