Bước tới nội dung

Trang:Nam Ky phong tuc nhon vat dien ca 1.pdf/5

Văn thư lưu trữ mở Wikisource
Trang này đã được phê chuẩn.

Tựa rằng:

Năm Nhâm-dần, tháng giêng ngày vọng,
Nhơn lúc nhàn, vỏ lộng bút nghiên.
Dạo Nam-kỳ, sáu tỉnh sơn xuyên,
Xem nhơn vật, đủ miền mọi chổ.
Ơn tứ hải, đệ-huynh điều độ,
Giúp hành trình, phí lộ kim ngân.
Hơn năm dư, chép thảo lần lần,
Thành một cuốn, xa gần các hạt.
Cách đặt dùng, quấc âm lục bác,
Cọng hai mươi, hai hạt nhỏ to.
Biết bao nhiêu, công khó đắng đo,
Cứ việc thật, không trò thêm bớt.
Giọng quê kịch, nhiều lời thưa thớt,
Vận dưới trên, non nớt chưa liền.
Tự Vủng-tàu, dĩ chí Hà-tiên,
Qua Châu-đốc, xuống miền Sa-đéc.
Tới mỗi hạt, trải chơi thăm xét,
Hỏi đon ren, mới biết ngọn ngành.
Những lớp xưa, người trước có danh,
Với thổ sảng, dân tình phong tục.
Quan Giám-khảo, xem tường trong đục,
Lấy đậu rồi, mấy lúc chưa in.
Đinh-thái-Sơn, có dạ thương tin,
Chịu hao tốn, ấn hành đải hậu.
Gọi là để, khóa đồng tập ấu,
Đâu dám rằng, tú khẩu cẩm tâm.
Lẻ xưa nay, thủy bất tại thâm,
Có rồng ở, thì đầm linh hiển.
Phận già cả, tiếc vì kinh điển,
Đã bấy lâu, rừng biển minh mông.
Dẩu khen chê, miệng thế thường đồng,
Phò danh giáo, xúc công tiểu bổ.
Chẳng phải bì, Mả-Thiên Ban-Cố,
Dấu sữ xanh, kim cổ lưu truyền.
Song cũng là, cờ chím nước tiên,
Roi sự tích, niên niên trường cữu.