Trang:Nam Ky phong tuc nhon vat dien ca 1.pdf/50

Văn thư lưu trữ mở Wikisource
Trang này đã được hiệu đính, nhưng cần phải được phê chuẩn.
— 47 —

Trụ trì ông Nguyễn-từ-Phong, Ở chùa Giác-hãi dưởng dung bấy chầy.
Gốc cô Hai-Liễu dụng gầy, Thêm nhờ Bổn-đạo ngày nay lập thành.
Từ-Phong có chí tu hành, Sảo tri nho học tánh lành không đua.
Cô Hai-Liễu rước về chùa, Bấy lâu hương hỏa bốn mùa thạnh sung.
Chợ Bà-hom ở giữa đồng, Thành-hoàng miễu vỏ đất giồng anh linh.
Chùa Long-thạnh, cảnh lịch xinh, Ông Hòa-thượng Hĩ học hành lắm công.
Văn chương kinh kệ khá thông, Dạy chư môn đệ học trong đạo thuyền.
Từ bi chữ dạ phật tiền, Thị phi thế sự không phiền đến tai.
Thầy chùa sáu tỉnh một ngài, Chẳng lòng trần lụy chẳng hoài lợi danh
Phải trang tu niệm lảo thành, Tương rau dưởng chí đã đành tự như
Phong thổ Chợ-đệm ngã tư, Cối xay với đệm dinh dư trữ nhiều.
Dân nhờ ruộng đất đủ tiêu, Làm ăn chắc chắn người đều thảnh thơi.
Bình-điền Bình-chánh các nơi, Hai bên đồng ruộng lộc trời phì nhiêu.
Bình-tây Rạch-cát ghe nhiều, Gò-đen Rạch kiến Rạch-đào chợ sung.
Hẩy còn noi dấu cổ phong, Ăn chơi đờn địch thung dung lắm nhà,
Thuở Cựu-trào, rạch Đôi-ma, Gần bên rạch Kiến cũng là sự linh.
Nguyên xưa Phạm-thị nữ trinh, Gả cho Nguyễn-Tánh học sanh vợ chồng.
Hỏi rồi mà cưới chưa xong, Hai người ruổi chết cũng trong một hồi.
Đôi bên cha mẹ ngậm nguồi, Nghĩ duyên tức tối sục sùi thở than,
Tữ đồng huyệt, sanh đồng sàng, Cho chôn chung lại một phan mộ phần.
Hồn linh hiển hiện nhiều lần, Người ta ngó thấy kêu rằng đôi ma.
Cách sông một khúc ngang qua, Có làng Đái-nhựt thờ mà Mai-hương.
Nắc-Thăm nguyên lúc nhiểu nhương, Rước binh Xiêm lại tranh cường giết anh.
Nắc-Yêm bôn tẩu Định-thành, Lịnh vua sai tướng hưng binh cứu nàn.
Hương làm Tào-vận tiểu quan, Quản coi một chiếc lương thoàn chở đi.
Quân Mên triệc ngã Bần-quì, Mai-công liệu thế hiểm huy nhản tiền.
Truyền quân lập tức đục thuyền, Mình cùng lương phạm xuống miền tiêu-tương.
Bỏ thân tách cỏi Trần-dương, Hồn chôn bụng cá phách nương hà phần.
Truy phong làm Tữ-nghĩa-thần, Ban tiền lập miểu kế gần Thủy-biên.
Nay còn tế tự thường niên, Nội làng hương-chức nhọc siêng phải nghì.
Bên miểu có cây bần-quì, Miểu ông bần-quì, tục-ngữ còn ghi.
Sông-tra lên xuống hằng khi, Ghe buôn tới đó đều thì vái vang.
Thương người trung liệc tữ nàn, Muôn năm huyết thực rở ràng tạc biêu.
Đường sông có sấu cũng nhiều, Bởi vì thanh vắn quạnh hiêu tư bề.
Ranh đất Gò-công giáp kề, Theo bờ đồng ruộng ngó mê cả ngàn.
Lắm quân trộm cướp tìm tàng, Các nơi chủ chứa trong làng thiếu chi.
Có người tuổi tác tu mi, Chức làm Linh-mục vậy thì tên Đoan.
Lão thành tánh nết kỉ cang, Sảo thông nho đạo tập nhàn y-phương.
Ham vui từ điệu văn chương, Thi thơ mảng tháp phô trương luận bàn.
Đã về hưu-trí dưởng nhàn, Lương-hòa An-hạ, tổng, làng đều thương.
Nay đà lên chốn Thiên-đường, Dấu roi mô phạm chúng thường ngợi tôn.
Trường riêng các chổ xã-thôn, Tứ-thơ, Ấu-học, lưu tồn văn phong.