Trang:Nam Ky phong tuc nhon vat dien ca 1.pdf/6

Văn thư lưu trữ mở Wikisource
Trang này đã được phê chuẩn.

NAM-KỲ PHONG TỤC NHƠN VẬT DIỄN CA

Hây hây cảnh tượng trời xuân, Thái hòa vỏ trụ nhơn dân lạc tình.
Bút nghiên giỏi dấu gia đình, Diễn ca phong tục lời mình đặt ra.
Già quê giọng nói thiệt thà, Giải khuây may cũng một và trống canh.
Nam-kỳ cảnh rất lịch thanh, Đường sông dặn dịch đất hình lăng xăng.
Đông nam hai phía địa phần, Giáp ra nam hải chẳng gần chẳng xa.
Tây giáp vịnh biễn Xiêm-la, Đông bắc Bình-thuận ấy là giáp ranh.
Phía bắc cả ngàn rừng xanh, Giáp Mên với Mọi tắc quanh nẻo đường.
Vịnh Xiêm ngoài phía đông phương, Hòn-tràm có đặt sở Thương-chánh-tòa.
Chỗ là giáp cõi Xiêm-la, Quan quân dinh dảy cữa nhà vẻn van.
Cổ-rồng hòn rất khô khan, Núi giăng lúm khúm cả ngàn cây dương.
Dân nghèo bãi biễn một phương, Làm ăn nơi đó quen đường ra vô.
Hãi sâm, mắm ruốt, mực khô, Đầu mồi, sứa muối, là đồ trời sanh.
Vủng-thơm vịnh lớn minh minh, Khỏi nơi Hòn-ráng tới quanh Hòn-nần.
Ngang qua Cần-vọt địa phần, Ngoài thời Phú-quấc cũng gần đâu xa.
Một lèo qua mũi Gành-bà, Rồi liền ngó thấy cữa là Hà-tiên.
Hòn-chông Hòn-đất liền liền, Hòn-tre Hòn-ráy ấy miền Kiên-giang.
Cữa biễn ông Đốc ngó ngang, Thời thấy Hòn-chuối một hàng tâm tâm.
Hòn-khoai giữa biễn khơi nằm, Mối đường hãi đạo chỗ nhằm yếu xung.
Bấy lâu hao phí nhơn công, Tháp xây đèn vọi vừa xong mới rồi.
Mi-Sên (Michel) cần cáng vô hồi, Đốc-công mấy tháng tài bồi lực đa.
Tàu ghe tâm tối vào ra, Nhắm chừng làm chắc khỏi sa lố cồn.
Hòn-khoai là chỗ thon von, Mũi nước chãy mạnh bon bon vận đào.
Trên hòn suối chảy rao rao, Nước trong ngọt tợ mưa dào thu thiên.
Dân ra chuyên chở liền liền, Cà-mau uống nước nhờ miền Hòn-khoai.
Cữa-lớn Vàm-nho ra hoài, Gành-hàu qua khỏi mé dài Mỹ-thanh.
Ngó ra ngoài biễn minh minh, Mù mù trời nước thấy hình Côn-nôn.
Cao-hoàng thuở trước viễn bôn, Bị ngươi Nguyễn-Huệ thói chồn manh tâm.
Xãy đâu mưa gió ầm ầm, Cù phong tật khởi loạn trầm tặc châu.
Khen cho máy tạo cơ cầu, Chuyện trăm năm đã cách lâu bao giờ.
Nay còn non nước sờ sờ, Dấu xưa hãy để cỏi bờ một phương.
Ước hai muôn thước bề trường, Hoành năm ngàn thước tịch thường ngàn dân.
Lớp thời chài lưới làm ăn, Lớp thời trồng rẩy ngày lần tháng qua.
Quan quân dinh dảy mấy tòa, Ngục-đường điển xá đều là oai nghi.
Tàu đò tháng ghé hai kỳ, Xúp lê (souffler) hiệu lịnh vậy thì thỗi vang.
Nam-kỳ tù phạm hơn ngàn, Đày ra ở đó khốn nàn xiết đâu.
Xưa nay thiện ác đáo đầu, Mình làm mình chịu ai hầu chịu cho.
Nhìn xem hình ảnh đơn cô, Vọi cao bóng thỏ bóng ô bời bời.