Trang:Nam Ky phong tuc nhon vat dien ca 2.pdf/12

Văn thư lưu trữ mở Wikisource
Trang này đã được hiệu đính, nhưng cần phải được phê chuẩn.
— 58 —

Phân minh thứ lớp ngoài trong, Học may học chử với cùng học thêu
Dừa cau vườn tược quá nhiều. Địa linh nhơn kiệt mỉ miều người ta.
Truy nguyên tích trước đã xa, Đất nhằm cuộc tốt trổ ra sỉ hiền.
Ông Trương-vỉnh-Ký sanh tiền, Song thân cội gốc ở miền Cái-mơn.
Hai bên yêm ái như đờn, Trau dồi đạo đức nghĩa nhơn trong nhà.
Mỏ-cày cảnh rất hào hoa, Người xưa danh giá có bà An-nhơn.
Giàu mà tích đức tu nhơn, Sanh con thi đậu Cử-nhơn Tú-tài.
An-nhơn phước đức lâu dài, Cựu trào khoa hoạn ba trai đã thành.
Tân-trào lại nối gia thinh, Chiêu là chắc nội học hành nên danh.
Ra làm Đốc-học Đông-kinh, Tánh thêm nho nhả thông minh khác thường.
Lưu truyền trung hậu từ lương, Thơ hương kế mỷ văn chương báu nhà.
Cầm-đường thong thả huyền ca, Ông Vỏ-văn-Vạn thật là thanh liêm.
Tánh hay nho nhả khiêm khiêm, Phủ trung vô sự yên điềm nhơn dân.
Mỏ-cày cai trị mấy xuân, Tổng làng đều thảy cảm ân an nhàn.
Hồi hưu dưởng lảo vẹn toàn, Bảo thân minh triếc coi càng khéo khôn.
Minh-huệ tổng Thành-thiện thôn, Đất nhiều vườn ruộng tục đôn mỷ thuần.
Đẹp bấy nhà Cai-tổng Xuân, Ba đời làm tổng người xưng đức hiền.
Con là thầy Cai-tỗng Yên, Thăng làm Tri-phủ ở miền Kiên-giang.
Cháu là thầy Phó-tổng Vàng, Đương kiêm hiện tại giàu sang nhơn nghì.
Người đều thương kính yêu vì, Bởi xưa tích thiện lưu kì tữ tôn.
Minh-huệ-tổng, Phú-trạch-thôn, Tiền-hiền vi phái tiếng đồn đều nghe.
Thuở kia Phú-trạch tư bề, Đất oan rừng buội cọp kề nhơn dân.
Ông chủ Vỏ, có phước phần, Tại mương Bà-Liểu dần dần mở mang.
Dựng nên địa cuộc trong làng, Thần-từ miểu-vỏ tốn càng định phương.
Tánh hay chiêu đải hiền lương, Sùng nho trọng đạo sữa đương mối giềng.
Âm minh nay đã tách miền, Dấu roi công đức tiền-hiền một ông.
Anh em bỉnh chánh thôn trung, Đều là nhơn hậu khiêm cung nết thuần.
Con trai lớn, tên Duy-Hưng, Hội-đồng địa-hạt tánh từng ruột gan.
Giữ niềm thần tỉnh mộ khan, Phụng nuôi từ-mẩu chí an thủ thành.
Chuyên nghề nông mẩu cần canh, Dạy em, con cháu, học hành nghĩa phương.
Truy nguyên cựu tích tỏ tường, Thuở hai ông cố lắm đường gian nan.
Ông-cố-nội, lập Tú-sang, Còn ông-cố-ngoại lập làng Tân-hương.
Qui mô vĩnh viển cữu trường, Để cho con cháu thạnh cường kéokhôn.
Minh-phú-tổng, Đại-điền thôn, Ông Nguyễn-tấn-Quới gia môn đức hiền.
Làm Cai-tổng đã kinh niên, Công lao giúp nước nhọc siêng nhiều bề.
Sữa sang phong hóa chĩnh tề, Các làng mỷ tục chẳng hề sai ngoa.
Giáp-thìn trận bảo tháng ba, Bốn ngàn giạ lúa đem ra chẫn bần.
Tu nhơn tích thiện nhiều lần, Quấc gia thưởng thọ vinh thăng Huyện hầu.
Gốc xưa phước đức bền lâu, Tữ tôn lang quế ngày sau nối dài.
Sanh Nguyễn-tấn-Hoài là trai, Ruột gan trải đải ít ai dám bì.
Tánh hay kiến nghĩa đương vi, Trọng người khinh của bất kỳ gần xa.
Nghề văn sảo biết Lang-sa, Vỏ thì học đủ vỏ Ta vỏ Tàu.