Trang:Nam Ky phong tuc nhon vat dien ca 2.pdf/17

Văn thư lưu trữ mở Wikisource
Trang này đã được hiệu đính, nhưng cần phải được phê chuẩn.
— 63 —

Tư bề Thừa-đức nội thôn, Đất trồng dưa-hấu ngọt ngon quá chừng.
Vật hèn cây lát cây đưng, Cũng là giúp đở nhơn dân lợi dùng.
Thẳng theo bờ ruộng các đồng, Chưng-bầu làm cuổi sẳng trồng nơi nơi.
Cây bần tạp dụng để chơi, Cù-lao mé nước mổi nơi kẹo lền.
Chữ kêu Thủy-liểu tốt tên, Ghe hay hứng mát dựa bên gần bờ.
Trang nghiêm một sở nhà thờ, Lầu cao vọi vọi đến giờ chuông rung.
Người trong đạo Chúa thạnh sung, Đến tuần xem lể khiêm cung kỉ càng.
Nhà-thương Nhà-phước bĩ bàn, Phân ra đâu đó lớp lang ê hề.
Bên phang bên niếc chĩnh tề, Các dinh các sở tư bề phân minh.
Điều-hòa Mỷ-chánh thần đình, Qui mô tráng lệ công trình biết nhiêu.
Châu-thành chợ nhóm dập dều, Xe người xe ngựa thảy đều có đưa.
Buổi mơi buổi tối buổi trưa, Tàu-đò xe-lữa rước đưa liền liền.
Đầu đường sáu tỉnh mối giềng, Tiệm ăn tiệm ngủ khỏe yên bộ hành.
Thiệt là đông đạo hữu danh, Tứ phương lai vản dinh sanh điệp trùng.
Người xưa chữ nghĩa mẩn thông, Kinh-Hương, Hạp-Trí hai ông thanh nhàn.
Đều là thuở cựu làm quan, Qua đời tân cũng yêu sang hai ngài.
Hương, làm Quản-hạt lâu dài, Trí, làm Phủ-sứ ra ngoài Thừa-thiên.
Đã lâu về chốn cữu tuyền, Tiếc thương danh giá lòng phiền cám trông.
Học trường chổ rất rộng trông, cũng là trường lớn ở trong Nam-kỳ.
Công phu ăn học cập kỳ, Có khi du tức có thì tàng tu.
Ông Cô-Tên (Cotel), tánh cần cù, Bề trên cai-quản mấy thu trường nầy.
Trong ba món chữ đều hay, Mình làm sư phạm nặng dày công lao.
Tác thành sỉ tữ biết bao, Gắn đua hậu tấn thấp cao bôn trì.
Nước nhà khen ngợi yêu vì, Phải trang sơn đẩu oai nghi làm thầy.
Nữ trường thiết lập mới đây, Dạy vừa thêu tiểu vá may đủ nghề.
Tập binh trại cất chĩnh tề, Chổ xưa thành củ nay nghè bình trang.
Mỷ-tho cũng xứ Trường-an, Phong lưu sỉ nữ lịch sang trong đời.
Hềm vì đường sá hẹp hòi, Xe đi hứng mát chiều trời không nơi.
Hoặc khi lể lớn ăn chơi, Đủ phường dinh dãy đủ nơi quê mùa.
Các làng đều có ghe đua, Điều-hòa Mỷ-chánh ăn thua nhứt nhì.
Hai làng roi dấu lể nghi, Lắm người thuở cựu học thi bộn bàn.
Nhiêu-Ninh, Học-Lạc, Nhiêu-Phang, Nho y cầm tữu phải trang học trò.
Lạc, Ninh, thôi đã rủi ro, Còn Phang, ở lại dũi co theo đời.
Dặm tình nhớ trước vơi vơi, Khi khuyên chén rượu khi mời câu thi.
Thầy-Tuấn, cũng tay lương y, Thuốc noi vương đạo Hiên, Kỳ, truyền tôn.
Trụ trì ông Pháp-sư Tồn, Tu hành có phận khéo khôn nhiều tiền.
Gặp thời thêm lại gặp duyên, Thiện nam tín nử người siêng phục tùng.
Bến-tranh, Cai-lộc, Sân-trông, Cổ-chi, Trấn-định, đất sung người hào.
Cao-hoàng-đế, thuở ra vào, Đương khi kình ngạt ba đào phiến dương.
Nhờ dân Tam-phụ thạnh cường, Phá Tây-sơn tặc chiến trường lập công.
Đông-sơn nghĩa lữ xưng hùng, Ngài đi chiêu mộ về dùng trảo nha.
Chổ à mủi giặc vô ra, Thói dân địch khái trẻ già thẳng ngay.