Trang:Nam Ky phong tuc nhon vat dien ca 2.pdf/20

Văn thư lưu trữ mở Wikisource
Trang này đã được hiệu đính, nhưng cần phải được phê chuẩn.
— 66 —

Một niềm cần kiệm sanh nha, Nữ công nữ hạnh ai mà sánh đương.
Dầu khi tị nạn viển phương, Cũng là siêng nhọc lo lường làm ăn.
Quả cư giữ vẹn lòng hằng, Mấy năm tạo lập ví bằng giàu to.
Một mình gầy dựng cơ đồ, Chia cho mấy cháu qui mô sẳng sàng.
Tám mươi bốn tuỗi giấc an, Thật là phú thọ ít trang như bà.
Cây cao tàng lớn diềm dà, Sau nhờ ấm mát cả nhà hiển vinh.
Ông Cả-Trị, làng Nhị-bình, Tuổi đà bảy chục tánh tình hào thay.
Sữa mình cứ lẻ thẳng ngay, Người trong làng xã càng hay phục thành.
Các thôn bản cận xanh quanh, Chuyện chi trắc trở đem dành xữ phân.
Gặp đời ly loan phân vân, Bảo toàn hương lý nhơn dân yêm liềm.
Trần-thinh-Dự, làng Dưởng-điềm, Sảo thông nho học tánh khiêm cung thường.
Ở nhà lập một tư trường, Dạy nên con trẻ văn chương khiển hoài.
Trên Rau-răm, dưới Ba-rài, Cù-lao Ngủ-hiệp đất dài rộng thay.
Chợ ông Cả-Công ngày nay, Nhóm thường sung túc đông dầy người ta
Nguyên xưa một chổ rừng dà, Huỳnh-văn-Công chiếm lập ra thị-triền.
Dần dần qui tụ đông liền, Phần ăn Cẩm-địa tiền hiền còn lưa.
Lịch thay phong thổ Ba-dừa, Vườn cây hai phía nhặc thưa cả ngàn.
Cau tầm-vun, với trầu rang, Bông hoa lợi lộc dể dàng dinh sanh.
Mỷ-đông-trung tục rất xinh, Huỳnh-văn-Trung trước học sanh Định-tường.
Đương cơn binh hỏa nhiểu nhương, Không quên thủy thổ Quấc-vương cang thường.
Lập ra tư thục một trường, Tạo thành môn đệ thôn hương tứ bàn.
Mình cam ẫn dật thanh nhàn, Dựng nền thánh miểu nghiêm trang kĩnh thành.
Nay đà về chốn âm minh, Con là Kĩnh-thứ gia đình thi thơ.
Ruỗi cho tuỗi tác không chờ, Mới vừa tữ biệt ngẫn ngơ sự nhà.
Hẫy còn con cháu thuận hòa, Dấu roi danh giáo chắc là nối sau.
Trãi xem phong cãnh Ba-dầu, Đất nhờ huê lợi cau trầu tư niên.
Mé sông dân ở liền liền, Xanh quanh nội chợ xóm riềng quạnh hiêu.
Bán buôn chẳng đặng bao nhiêu, Làm ăn chắc chắn cứ theo ruộng vườn.
Nguyễn-thị-Liệu, trinh nữ phường, Nguyên xưa nàng ấy bị cường hãm dâm.
Khi đó tuỗi chừng mười lăm, Mình không chịu nhục mạng lầm tay gian.
Vua ban cho tấm biển vàng, Lập phường trinh nữ tại làng Mỷ-đông.
Tiếc danh chói rạng non sông, Những người hương phấn ai không yêu vì.
Miên kinh ngoạt cữu lắm khi, Ngói vôi xui ngã còn chi nữ phường.
Thiện nam tín nữ bỗn hương, Y theo sữa lại tỏ tường như xưa.
Tấm biển cũ hãy còn lưa, Đổi làm tấm mới cũng vừa mỹ quan.
Thường niên cúng cấp cổ bàn, Câu liên trước cữa ngai vàng biểu sinh.

聖 德 褒 旌 用 示 節 烈 者 勸
女 貞 自 守 無 為 強 暴 所 污