Trang:Nam Ky phong tuc nhon vat dien ca 2.pdf/21

Văn thư lưu trữ mở Wikisource
Trang này đã được hiệu đính, nhưng cần phải được phê chuẩn.
— 67 —

Thanh-sơn thôn, cãnh rất xinh, Là chợ Cây-lậy có dinh phủ đường.
Nghiêm trang điển xá học trường, Cữa nhà đông đảo phố phường trước sau.
Sông Cái-bè, rạch rộng sâu, Có quan Tỗng-đốc nhà lầu tôn nghiêm.
Một tòa cao vọi lặng yêm, Phía sau gia mộ cuộc thêm diềm dà.
Gốc xưa thi lể truyền nhà, Gặp cơn ly loạn mình ra dẹp nàn.
Xuất thân từ lính đến quan, Bốn mươi năm chẳng trên an nhọc nhằn.
Tên là Bá-Lộc họ Trần, Tướng hùm nỗi gió oai thần nép ma.
Nhứt sanh tin tưởng Chúa-Bà, Thường đeo tượng ảnh để mà trấn thân.
Khi nào hỗn chiến giáp gần, Đạn tên giặc bắn rần rần bên tai.
Như ai che đở mình ngài, Dư trong mấy trận không hoài vít đau.
Bắn voi lớp trước lớp sau, Hai mươi tám thất chẳng sầu chẳng nao.
Mình không thương tích tổn hao, Thiệt là bổn mạng gởi trao cho Bà.
Làm nhà thờ Đức-chúa-Bà, Phí tiêu ước đến của nhà tiền muôn.
Giữ gìn đạo Chúa luôn luôn, Tấm lòng sánh với tiếng chuông chẳng rời.
Mẹ cha như đất như trời, Ngài hay hiếu dưởng đời đời không sai.
Pháp-triều thạnh trị lâu dài, Lạc-hoa sang trọng thưởng tài nguơn công.
Vua Đồng-Khánh, có tặng phong, Kim tinh bội khánh thanh hồng sô xa.
Hiếu tâm dủ nhựt dủ gia, Bất suy thê tử thuận hòa đệ huynh.
Bảo an nội hạt thái bình, Nam-kỳ lục tỉnh một mình không hai.
Sanh ra trai phải con trai, Tử thừa phụ nghiệp lâu dài hiển vang.
Ông Trần-bá-Thọ vững vàng, Mở khoa ngôn ngử lại càng có danh.
Kể ra những sự đào kinh, Gốc xưa Thập-tháp nghĩa binh tụ tàng.
Giao hòa thuở mới vừa an, Vỏ-di-Dương lén dọc ngang biên thùy.
Kheo khư chổ rất dị kỳ, Tư bề bưng trấp giữa thì tháp xây.
Ông-Dương vỏ nghệ cao tay, Chiêu qui binh chúng chiếm ngay xưng hùng.
Mịt mù bốn phía minh mông, Tấn công thối thủ đất không thế thần.
Hiếu trung lòng dốc chuyên cần, Nghịch trời đem sức quét trần đặng đâu.
Thoát thân về với ghe bầu, Khỏi nơi Cần-hải Tiền-xu đón thoàn.
Giấc nồng đêm dậy nhảy khan, Hồn chôn bụng cá ưng oan chẳng cầu.
Miển tròn danh giá về sau, Ức dương nghị luận mặc âu thế tình.
Tháp-mười địa cuộc minh minh, Muôn trùng nước cỏ thinh thinh dập dồn.
Ước chừng một huyện xả thôn, Cọp voi heo rắn khỉ chồn ở bao.
Ông Trần-bá-Lộc xin đào, Kinh thông nước chảy dể vào dể ra.
Quan nghi sức mọn người ta, Đào sao cho thấu hằng sa Tháp-mười.
E khi uổng phí công người, Cả trong thiên-hạ chê cười tốn hao.
Nhiều lần xin, mới cho đào, Ba năm đất mở biết bao hoan nhàn.
Giải dầu trải mấy gian nan, Nên ra một chổ muôn ngàn điền gia.
Nay đà lợi ích nước nhà, Công xâu dân chúng công đà đáng công.
Tốt thay Thập-tháp một đồng, Đông tây nam bắc nay thông bốn bề.
Tân-an Sa-đéc giáp kề, Các mối kinh đã dân về vạn thiên.
Trời cho một chổ bạc tiền, Bởi người có khó có siêng mới thành.
Nông là gốc của dân sanh, Làm ra đặng lợi đặng danh đời đời.