Trang:Nam Ky phong tuc nhon vat dien ca 2.pdf/22

Văn thư lưu trữ mở Wikisource
Trang này đã được hiệu đính, nhưng cần phải được phê chuẩn.
— 68 —

Đập đìa bưng xẻo khắp nơi, Cậy nhờ lúa cá thảnh thơi an nhàn.
Pháp triều đồ sộ giang san, Ơn quan Tổng-đốc nhẩy tràng chung riêng.
Nguyên khi thiết lập Đồn-điền, Hẩy còn nền chợ ở miền Xoài-tư.
Toan khai Thập-tháp câu cừ, Đặng thông các ngã dân cư nẻo đường.
Đại thần ông Nguyển-tri-Phương, Một tay chuyên chế phong cương chuẩn thằng.
Thứt khuya dậy sớm nhọc nhằn, Ưu dân ái quấc lòng hằng thảo ngay.
Sắm đào chưa kịp đến nay, Ông Trần-bá-Lộc sau bày thành công.
Hềm vì công đã thành công, Giáp-thìn bão ngập lúa không hột nào.
Tị-niên lại bị cào cào, Phần thêm chuộc cắn làm sao cho bình.
Hà-dương thần miểu một mình, Trên vàm Trà-lọt nước quanh vận đào.
Tàu ghe lên xuống ra vào Xứ kêu Vòng-mẫn ba đào hãi kinh.
Nhiều người không tỏ hiệu danh, Gọi là Dinh-cậu anh linh tiếng đồn.
Vàm Trà-lọt Hòa-khánh thôn, Có ngôi thạch mộ vĩnh tồn non sông.
Người đều kêu mã Lê-Ông, Nguyên là Nội-tỗ Tướng-công Bình-hòa.
Gốc khi dịch khí thạnh đa, Lê-Ông ngẩu cảm vội đà quyên sanh.
Giặc trời lúc ấy hoành hành, Chết chôn sơ tạm ai dành ruỗi may.
Đến vàm ông ấy đứt dây, Người bèn đào lỗ lấp ngay giữa chừng.
Vợ con không sở ăn mần, Đem nhau về ở Long-hưng Thuận-bình.
Rạch Ông-Hỗ ấy là danh, Mấy năm cư trụ kinh dinh ruộng đồng.
Sanh đặng ông Lê-tướng-công, Miểu lăng Gia-định thạnh sùng lữa hương.
Lê-Ông mộ chí ghi tường, Tại nơi Hòa-khánh thôn hương rỏ ràng.
Viên quan chức sắc nội làng Nhiều tay lể nghĩa nhiều trang học hành.
Tai ngơmặt lấp bao đành, Thường niên tế tảo dai thành Lê-Ông.
Đổi dời trải mấy thu đông, Mà người trung hậu một lòng tương đôn.
Lịch thay Hòa-khánh nhứt thôn, Dân phong thuần mỷ lược tồn sữ kinh.
Hương-quan-Đức, Nguyễn-ngọc-Huỳnh, Tú-Sỉ Nhiêu-Thới với anh Học-Điềm.
Đều là tánh hạnh khiêm khiêm, Thú vui đờn rượu ngày tìm dưởng dung.
Định-tường hạt ở chánh trung, Sông sâu nước chảy người sung lịch đời.
Văn phong thuở cựu rạng ngời, Một ông Tấn-sĩ hai người Thủ-khoa.
Ăn chơi tục lắm xa hoa, Cầm kỳ thi tữu vịnh ca tiếu đàm.
Tục hay tin chuyện bá xàm, Mấy thầy Tướng-ứng nói thàm nói vơ.
Tục hay thù vặc thừa cơ, Phao thuốc phao súng rơi thơ rơi tờ.
Thận, Long, năm trước đề cờ, Hiệp cùng Đức, Rộng, phĩnh phờ dậy binh.
Xuống lên Mỷ-quí Tân-thành, Điềm-hi, Hữu-đạo, xanh quanh các làng.
Giặc sao gươm giáo nghinh ngang, Súng ống không có ó vang cùng đường.
Điên cuồng gẩm cũng khá thương, Bốn người thảy mắc chiến trường tróc câu.
Dẫn ra Cây-lậy chém đầu, Bốn người đều chém trước sau một lần.
Sau thêm Ong, Khã, lẫy lừng, Roi mây ngựa chuối giăng giăng khởi cùng.
Dối rằng phép lạ năm Ông, Bùa linh hiển hích súng không làm gì.
Dân làng chẳng hiểu sự chi, Ngở là diệu pháp vậy thì rùng theo.
Ruổi ro Ong, Khả, vận nghèo, Bắt đều chém tại Thuộc-nhiêu Cựu đồn.
Người đời đâu thiếu trí khôn, Bởi nghe quấy quá hóa phồn dại ngu.