Trang:Nam Ky phong tuc nhon vat dien ca 2.pdf/27

Văn thư lưu trữ mở Wikisource
Trang này đã được hiệu đính, nhưng cần phải được phê chuẩn.
— 73 —

Ít nhiều chung đậu của tư, Lo bề tống táng chĩ ư tâm đồng.
Phò Nguyễn-trào, Tống-quấc-Công, Trung cang nghĩa khí một ông linh thần.
Miễu tại Long-châu địa phần, Cựu trào thiết lập sữa mần đã lâu.
Tân trào cai trị lớp sau, Hỏi hang sự tích biết âu rỏ ràng.
Ba ngàn đồng bạc hậu ban, Đội ơn nhà nước cho làng trùng tu.
Hưởng nhờ huyết thựt thiên thu, Rộng thinh trước miễu giai cù thẳng ngay.
Thiếu chi chùa miễu đời nay, Tục người tế tự cũng hay kĩnh thành.
Thuở ấy ông Cao-văn-Sanh, Thiên tư mẫn thiệp khí oanh tánh hào.
Giải dầu hoạn hãi ba đào, Làm tôi giúp nước công lao rất nhiều.
Tống-Minh Tri-phủ cựu triều, Gia viên ẫn dật mỷ miều nho phong.
Xóm Cái-cá nhà ở đông, Có người phú thọ phải ông nhơn hiền.
Tên đặt gọi là Tống-Diên, Thiệt trang phước đức cao niên trong làng.
Phước-hậu thôn, ông Cã-Nhan, Tu nhơn tích thiện tiếng vang xa gần.
Nay đà cách biệt dương trần, Phước sanh thảo thuận để phần tữ tôn.
Quấc-âm cách đặt khéo khôn, Vĩnh-long toàn hạt tiếng đồn Giáo-Kim.
Tánh người nho nhã khiêm khiêm, An thường thủ phận chẳng thèm vọng tham.
Sanh Giáo-Thiệp cũng kỳ nam, Thơ hương kế mỷ chức làm Nghiệp-sư.
Siêng cùng nhựt nguyệt cư chư, Học trò thành đạt hiện chừ đương kiêm.
Chợ Ba-kè, thầy Tú-Nghiêm, Thiệt thà chơn chấc tánh khiêm diệu dàng.
Tốt thay Mỷ-thạnh một làng, Anh linh hiễn hích miễu quan Tiền-hiền.
Ngài xưa hưu trí qui điền, Chiêu dân lập ấp xóm riềng mở mang.
Ra công lập đặng thành làng, Gọi làng Mỷ-thạnh dọc ngang rộng dài.
Đến sau tách lại thêm hai, Mỷ-hưng Mỷ-hội phía ngoài hai thôn.
Với Mỷ-thạnh, là ba thôn, Tiền-hiền Cẫm-địa lưu tồn miễu môn.
Miễu ngài chánh Mỷ-thạnh thôn, Đến ngày kị lạp ba thôn tới đều.
Viên quan hương chức mỷ miều, Một câu thành kĩnh tạc biêu tấm lòng.
Lê-công-An, ấy tên ông, Bà là họ Đặng-thị-Thông rỏ ràng.
Ông bà công cán gian nan, Dựng nên cơ chỉ một làng ra ba.
Biết bao phước đức ông bà, Vợ chồng khi mất đều là ngày nguyên.
Ông nhằm vọng nhựt tháng giêng, Bà thì nhằm bữa hạ nguyên tháng mười.
Ngàn thu hương lữa rạng ngời, Sống sao thác vậy như người thần-tiên.
Gọi là miểu quan Tiền-hiền, Nơi làng Mỷ-thạnh cất riêng một tòa.
Có người gần đó không xa, Thầy Cai-tổng Điểm phú gia hào cường.
Giáp-thìn trận bảo tai ương, Bốn trăm giạ lúa qua đường Gò-công.
Giúp cho những kẻ khốn cùng, Đương cơn thiên biến cũng lòng thiện tâm.
Sông Mân-thích, cồn Cái-nhum, Truy nguyên sự tích lâu năm choạnh sầu.
Nhớ xưa Văn-Tiếp tánh Châu, Phò Cao-hoàng-đế trước sau một lòng.
Chức phong Đô-đốc Nguyên-nhung, Cúc cung tận tụy liều cùng quân-vương.
Nơi sông Mân-thích bị thương, Đem thân cảm dỏng chiến trường quyên sanh.
Anh hùng chí khí liệc oanh, Sử xanh tạc để đành rành còn ghi.
Làm tôi ngay thảo trọn nghì, Hưởng nhờ ơn chúa vinh chi cho bằng.
Biễn dâu dời đổi lăng xăng, Tổng làng nhơn nghĩa bỗn căng vuông tròn.