Trang:Nam Ky phong tuc nhon vat dien ca 2.pdf/42

Văn thư lưu trữ mở Wikisource
Trang này đã được hiệu đính, nhưng cần phải được phê chuẩn.
— 88 —

Nhớ xưa sự tích ngùi ngùi, Cao-hoàng tìm để chúa tôi ra vào.
Đồn quân thứ, tại Vàm-nao, Gặp cơn ly loạn xiếc bao nạn nhà.
Vàm-nao chữ đặt Hồi-hoa, Chổ nhằm mũi nước chảy qua quanh vòng.
Sông sau sông trước hai dòng, Phân ra hai ngã ngoài trong vận đào.
Các ngã gần, chảy nhặp vào, Tục kêu là xứ Vàm-nao rỏ ràng.
Vực sâu như hố như hang, Trưởng sanh cá mặp tìm tàn họa ương.
Nay tàu lên xuống đi thường, Lại thêm cồn nổi hẹp đường Vàm-nao.
Bấy lâu an ổn ba đào, Côn kình bặc dấu âm hao đến rày.
Rẩy trồng chàm mía nhặc dày, Khoai dưa bắp đậu ngó đầy nơi nơi.
Làm ăn nghề nghiệp thảnh thơi, Cả năm vừa cũng sự đời đủ tiêu.
Đốc-vàng thượng hạ dập dều, Miễu chùa nhà cữa xứ nhiều chổ linh.
Trên bờ rẩy ruộng thâu thành, Dưới sông cá mắm dinh sanh cội nền.
Cá-linh từ đó sắp lên, Bước qua mùa nắn kẹo lền bực sông.
Dầu cá-linh, lò nấu cùng, Tối thì nổi lữa theo vòng giang biên.
Vợt xúc lên bỏ nấu liền, Ghe buôn thấy cũng giãi phiền tâm trung.
Long-xuyên mùa nước ngập cùng, Tục dân buôn bán dưới sông nhà bè.
Phường dinh vô thấu nhà quê, Cất nhà sàng ở kém bề vẻn vang.
Công đường bên niếc bên phang, Lầu đài cao thắp thanh quan các tòa.
Tàu đò lục tĩnh ghé qua, Bộ hành cũng có đờn bà đờn ông.
Tàu đi Rạch-giá chực trông, Chiếc thì của khách chiếc trong hảng mình.
Dân Mên các sốc linh tinh, Ở theo có xóm ngoài minh mông đồng.
Có ông Quản-hạt-hội-đồng, Tên Trần-bá-Diệp mẩn thông tiếng đồn.
Trước làm tòa bố Thông-ngôn, Tánh hay kiến nghĩa xã thôn phục tình.
Huỳnh-đường ông Nguyễn-hà-Thanh, Vinh thăng Tri-phủ hiển danh xứ mình.
Nghĩa phương giáo huấn gia đình, Chuộng yêu đạo thánh ngâm bình phú thi.
Tuỗi đà bảy chục chưa suy, Cũng là phải mặt tu mi lảo thành.
Làng Mỷ-thạnh Ngô-văn-Sanh, Gốc nhà nhơn đức lịch thanh phú hào.
Làm Hiệp-quản, thuở Cựu-trào, Sau làm Tỗng-việc Tân-trào có danh.
Vợ chồng tánh ở hiền lành, Lúa tiền thường giúp dân tình làm ăn.
Trời cho nhờ hưởng phước phần, Ông bà khi thác tuỗi chừng tám mươi.
Sanh con cháu thảy nên người, Hội-đồng Cai-tỗng rạng ngời khôi tiên.
Đời Gia-Long, thập thất niên, Ông Bảo-hộ-Thoại phụng truyền chĩ sai.
Đào kinh Lạc-dục rất dài, Ngang qua Núi-sặp trong ngoài giao thông.
Rồi vừa một tháng nhơn công, Giáp vô Rạch-giá thương nông đều nhờ.
Huờn thành hạng đạo tư cơ, Họa đồ với sớ chung tờ tâu dưng.
Vua khen công khó nhọc nhằn, Cho tên Nùi-sặp kêu rằng Thoại-sơn.
Vinh như Ông-Thoại chi hơn, Danh tiếng không sờn nơi miệng người ta.
Trào Minh-Mạng năm thứ ba, Thoại-hầu xuất của cất ra miễu thần.
Bên triền Núi-sặp gần gần, Dựng bia đá lớn tự trần công lao
Ngày nay xáng lại thêm đào, Càng sâu rộng nữa càng vào ra đông.
Hai bên đất trống minh mông, Bên đồng Núi-sặp bên đồng Ba-thê.
Tuy là Núi-sặp chỗ quê, Học trường điển xá đủ bề nghiêm trang.