Trang:Nam Ky phong tuc nhon vat dien ca 2.pdf/44

Văn thư lưu trữ mở Wikisource
Trang này đã được hiệu đính, nhưng cần phải được phê chuẩn.
— 90 —

Nối làm chủ-bút nhựt trình, Với ông Huyện-Trụ kinh dinh sắp bày.
Phò trì phong hóa rất hay, Gọi là Nông-cổ tháng ngày công lao.
Thánh hiền tào phách bì mao, Còn trong đạo vị chút nào cũng may.
Kiếm tìm sự tích xưa nay, Chuyện chi hữu ích in rày để coi.
Tay cầm ban quản một ngòi, Nôm na dấu để gương soi đành rành.
Người xưa khoa-mục học hành, Ông Tuần-phủ-Đạt Triều-đình chuộng yêu.
Phú thi ngâm vịnh rất nhiều, Tác thành môn đệ người đều lớn khôn.
Nay còn để dấu khương tôn, Văn chương lể nghĩa thập tồn nhị tam.
Lăm tuyền ẩn dật tự cam, Tánh thầy Nhiêu-Chánh không kham theo đời.
Mấy năm chẳng chịu dạy người, Dần dần tiêu mất hết mười phần nhu.
Càngngày kinh sữ hoan vu, Song mà phong tục tạc thù tương đôn.
Tập thành phong hóa các thôn, Ruột gan khẳn khái lưu tồn hiếu trung.
Kiên-giang ngoài biển trong đồng, Trải xem thổ sảng đồ dùng biết bao.
Cá-thu cá-cháy cá-cào, Mựt tươi khô gộc con hàu con đuông.
Cá đồng rạch trữ luôn luôn, Nghề riêng mắm-ruốt ngàn muôn bạc tiền.
Làm ăn đất tốt nước hiền, Gạo thơm trắng dẻo có liền cả năm.
Dưa-môn bán cũng tiền trăm, Mùa ong sáp mật đi thăm đầy rùng.
Sân chim thay đổi không chừng, Tại nơi Cái-lớn trong rừng lạ thay.
Hoặc là chổ đó năm nay, Lai niên chổ khác gần rầy một bên.
Giữa rừng dây choại kẹo lền, Chim bay đáp xuống hóa nên sân bằng.
Người ta khéo kiếm làm ăn, Lớp phơi lòng thịt lớp căng mở dầu.
Mà chim chẳng chịu đi đâu, Mổi năm mổi bị tróc câu một lần.
Đã hay vật dỉ dưởng dân, Dưởng mà không đủ cứu bần trợ nguy.
Nở nào giết hết tông chi, Tưởng nghề sanh lý thiếu chi mà tìm.
Lâu nay mấy chú hại chim, Thường khi ngó thấy liêm diêm nghèo hoài.
Chiếu bong khổ vắn khổ dài, Dệt ba bốn hạng cũng tài trong tay.
Xứ Rạch-giá, các thứ cây, Tràm nhum kè giá nhẩy đầy rừng hoan.
Ruộng khai khẩn đất cả ngàn, Ruộng đâu kinh đó sẳng sàng người ta.
Cái-bé, Cái-lớn, thẳng qua, Dân cư theo xóm đều là nghiệp nông.
Ngặt vì nước biễn mặn nồng, Cây trái khó trồng người ở chưa đông.
Xáng đào kinh rạch đều thông, Ngày sau đây cũng thạnh sung như thường.
Thổ-châu là xóm hiền lương, Tục kêu Hòn-đất nhiều vườn trồng tiêu.
Cà ràng trách trã quá nhiều, Làm rồi đốt trấu hằm đều đem ra.
Không như đất sét của ta, Đất coi xốp bở làm đà quá mau.
Bán cùng thiên-hạ đâu đâu, Dân nhờ huê lợi bền lâu xây dùng.
Thuở Cao-hoàng-đế Gia-Long, Lắm khi trú tất ruổi dung lánh nàn.
Sử xanh còn chép rở ràng, Ngọn rau tấc đất thấy càng cảm thâm.
Hòn-tre hình tợ rùa nằm, Quan tây mới khẩn mấy năm lập vườn.
Cũng là khôn khéo lo lường, Hao công tốn của lập đường về sau.
Nay đà cây trái tốt mầu, Dần dần hoa lợi góp thâu đặng nhờ.
Thon von giữa biển cỗi bờ, Siêng thời gầy dựng tư cơ chỉnh tề.
Tốt thay phong cảnh Hòn-tre, Kiên-giang ngoại án xa che diện tiền.