Trang:Nam Ky phong tuc nhon vat dien ca 2.pdf/50

Văn thư lưu trữ mở Wikisource
Trang này đã được hiệu đính, nhưng cần phải được phê chuẩn.
— 96 —

Quan gia luôi tới liền liền, Núi Sam danh tiếng cũng miền thanh bai.
Trà-sư cho đến núi Giài, Dân cư rẩy ruộng lúa khoai đầy đường.
Đốc-công tạo lập sở vườn, Thanh hoa đẳng vật coi thường vẻn vang.
Cất bên một cái nhà bàn, Để khi ăn uống nghĩ an luận bàng.
Sau lập chợ phố hai hàng, Người đều kêu chợ Nhà-bàn thành danh.
Vui xem Núi-két cảnh xinh, La-kê Đốc-học lập thành vườn to.
Bấy lâu gầy dựng qui mô, Nay đà cây trái trời cho hưởng nhờ.
Cư dân trù mật cõi bờ, Ruộng vườn rẫy bái tư cơ trăm ngàn.
Cây dương trồng thẳng một hàng, Tại chùa Bóng-thị cảnh càng lịch thanh.
Chùa coi tinh khiết hữu tình, Mà đồ vật dụng sắm sanh quá kỳ.
Ghế giường chén dỉa thiếu chi, Mùng mền chiếu gối biết thì bao nhiêu.
Đêm khuya cúng cấp quạnh hiêu, Chùa không thờ phật bàn nhiều nghinh ngang.
Thị là bỗn chấc nam trang, Mà bề cữ chĩ giả trang nữ hình.
Tu hành bày sự trớ trinh, Gạt người lấy của kinh dinh cho mình.
Núi Đài-tốn, chỗ anh linh, Mên kêu Xoài-tón âm thinh cũng gần.
Nghề hay đồ gốm hỏa phần, Cà ràng trách trã người mần thường xuyên.
Bắp khoai mía đậu khắp miền, Phố phường nhà cữa xóm riềng nghiêm trang.
Học trường điễn xá của quan, Miễu chùa tu chĩnh lớp lang phải bề.
Tuy là một chỗ xứ quê, Trên bờ dưới nước phủ phê bĩ bàn.
Nguyên xưa đất lắm hoan nhàn, Mấy ông lớp trước mở mang rạch cồn.
Sở tại là Hưng-nhượng thôn, Thành-hoàng miễu vỏ nghiễm tôn một tòa.
Thuở chưa thiết lập quan nha, Ông Tri-huyện Ở vỏ ca đình thần.
Vỏ-văn-Vạng, tánh mẫn cần, Việc quan khuya sớm dần dần ra công.
Đào kinh tên Bọt-cơ-giông, Thấy dân nghèo khỗ lấy lòng thương dân.
Chạy tờ xin tĩnh thi ân, Quan trên cho bạc tạo tân Huyện đường.
Lại xin lập điễn báo trường, Sữa sang phong cảnh dạy hương chức làng.
Thất sơn hòn dọc hòn ngang, Nói sao cho xiết cả ngàn phong cương.
Sa nhơn trầm tốc giáng hương, Thổ nghi dược liệu thường thường có sanh.
Bông mai vàng trắng tươi xinh, Đến mùa bẻ xuống bán nhành chơi xuân.
Cát với đá, vật trong rừng, Dân nhờ huê lợi chuyễn luân xây dùng.
Vôi thì tại xứ Càng-long, Núi-sam đá tốt cát ròng trắng tinh.
Mấy cù lao ở xanh quanh, Lao-ba thứ nhứt đậu xanh dâu chàm.
Bắp dưa khoai mía siêng làm, Dân cư hai phía Bắc Nam mật trù.
Đẹp thay địa cảnh Tân-châu, Kiễm-lâm ở đó coi thâu thuế bè.
Các bè cây gỗ kiến tre, Nơi trên sông lớn thã về ghé ngang.
Kiểm-lâm xem xét kỉ càng, Nạp đăng bạc thuế rỏ ràng rồi đi.
Dinh quan Đốc-phủ oai nghi, Phần ngài cai trị vậy thì xả dân.
Nguyễn-trung-Thu, nết thận cần, Sữa nên phong tục mỷ thuần khá khen.
Kề mé sông chợ đông ken, Bán buôn đông đảo tối đèn sáng giăng.
Bờ kinh nhà cữa lăng xăng, Xóm nhà đông lắm gọi rằng Châu-giang.
Gốc xưa Ai-cập đem sang, Lớp nào không biết ở an đến rày.
Ngày nay sanh đẻ đông dầy, Nam phụ lão ấu cả bầy cả phe.