Trang:Nam Phong Tạp Chí 2.pdf/48

Văn thư lưu trữ mở Wikisource
Trang này cần phải được hiệu đính.
124
NAM PHONG

Đọc bài « Bể-thảm » ấy mà nhớ đến cái đoạn não-nùng trong Cung-oán:

Thảo nào khi mới chôn rau,
Đã mang tiếng khóc bưng đầu mà ra!
Khóc vì nỗi thiết tha sự thế,
Ai bày trò bãi bể nương dâu?
..................................
Kiếp phù-sinh trông thấy mà đau.
Trăm năm còn có chi đâu,
Chẳng qua một nấm cỏ-khâu dì-dì!

Lại bài « Khóc bạn », nhời khúc-triết, giọng thiết-tha, cũng phảng-phất được ít nhiều bài ông Hàn Dũ khóc cháu. Cho hay tự-cổ-chí-kim phàm tiếng kêu-khóc đã xuất tự trong lòng ra thì cũng là mang bấy nhiêu nỗi ngậm-ngùi, bấy nhiêu tình thê-thảm! Chỉ tiếc trong bài văn ấy phải một đoạn giữa mượn những tên ông Sấm ông Sét, đức Thiên-lôi, bà La-xát, mà tỉ cái hồn tự-do thanh-nhàn của người bạn mình, người bạn dầu có biết ngồi nghe nhời viếng ấy cũng phải khiếp-đảm.

Đại-để thì ông Hải-nam hay văn vần hơn văn suôi. Những bài văn suôi của ông như bài Tụa, bài « Bàn về chữ tình », còn chưa được luyện lắm. Bài tựa thì khí lôi-thôi, mà bài « tình » thì có lắm đoạn hơi buồn cười: như ông dạy « chữ tình không phải chỉ riêng một mình đàn ông có, riêng một mình đàn bà có, phải trộn lẫn hai đằng lại với nhau mới thành ra một khối tình chung (!) », thì tưởng chẳng cần phải có cái tư-tưởng sâu-sắc lắm mới hiểu được!

Chẳng dám khuyên gì ông, nhưng thiết-tưởng làm văn suôi cốt giảnước. Muốn diễn một cái tư-tưởng gì, phải sếp đặt ý sẵn trong bụng, rồi cứ lần-lượt mỗi ý diễn ra một nhời, chọn nhời cho tương-đương với ý, hơn một câu không nói, thiếu một ý không nghe; có muốn tỉ-dụ cho rõ nghĩa thêm thì cũng chỉ nên chọn trong nhiều việc nhiều người lấy một người một việc nào là đích-đáng mới nói, chớ có nên nhân bàn một sự gì cũng gọi đến vua Nã-phá-luận nước Pháp, ông Mã-chi-ni nước Ý, thầy Lư-thoa, thầy Mạnh-đức, bà Trình-đức, bà U-lan, chút cả bộ Am-băng vào một trang giấy! Cái tật ấy là một tật chung của các nhà đọc « tân-thư » ỏ nước ta; ông Đoàn xem ra cũng mắc ít nhiều.

Còn vận-văn của ông thì không kể bài « Bể-thảm » hay hơn nhất, những bài khác cũng nghe được cả. Xem ra ông sở-trường lối thơ buồn hơn thơ vui; đó cũng là một cái đặc-sắc trong nghề thơ của ông. Bởi thế những câu hay thường là câu buồn:

Nước chẩy chẩy theo đôi giọt lệ,
Nhà xa xa cách mấy ngàn giâu!
Sông Thương sực nhớ đêm mưa gió,
Kẻ ngược người suôi một chuyến tầu.
..................................
Năm canh một ngọn đèn xanh ngắt,
Thêm giật mình cho trận gió lau.

Những bài tả phong-cảnh thú cũng là cái thú buồn, thú tiêu-sắt như thú mùa thu. Như hai bài đi chơi thuyền trên Tây Hồ:

Một chiếc thuyền-tình bốn mặt hoa,
Trên giời dưới nước giữa đôi ta.
Hồ quang mưa tạnh sen vừa nở,
Giữa bóng giăng khuya bóng chửa ta.

Trần-gian mơ tưởng cảnh bồng tiên,
Phỏng cũng như đây nước một miền.
Thuyền nếu cứ đi người chẳng lại,
Đời sau thêm một chuyện Đào-nguyên.

Hai câu dưới khéo. Vì ông Đào Tiềm ngày xưa là ai? Mỗi người ta cũng có thể mà cũng có lúc là ông Đào-Tiềm được. Bước chân vào nơi phong-cảnh hữu-tình, nếu biết lấy con mắt thơ mà nhìn, thì suối Đào tất ở đấy không xa.

Những bài ca-dao của ông cũng nhiều bài véo-von lắm, thực có cái tinh-thần Quốc-phong ở đấy; đều là đáng hát cả. Thứ nhất là bài « đứng đầu cầu Ninh-bình »: