Trang:Nam ngan chich cam.pdf/15

Văn thư lưu trữ mở Wikisource
Trang này đã được hiệu đính, nhưng cần phải được phê chuẩn.
— 14 —

Chật thây ra ngoài.
Đâm đầu vào bụi.
Thắt chặt quai túi,
Bưng kín miệng bình.
Giơ dáng dạng hình,
Nôm na mách qué.
Xẩy đàn tan nghé,
Cháy thành vạ lây.
Giả tỉnh giả say,
Nửa nạc nửa mỡ.
Cá mè một lứa,
Hàng cót bằng nan.
Theo đóm ăn tàn,
Góp gió làm bão.
Dấu kim tay áo,
Buộc chỉ chân voi.
Tiếc thịt trâu toi,
Cưỡi đầu voi dữ.
Quay thua đáo gỡ,
Giầu điếc sang đui.
Nát dẻo sống bùi,
Điều nặng tiếng nhẹ.
Năm cha ba mẹ,
Một chốn bốn quê.
Giấy rách giữ lề,
Người tốt về lụa.
Cầy sâu tốt lúa,
Ăn vặt quen mồm.
Đầu rồng đuôi tôm,
Mặt dơi mày chuột.
Cơm tẻ mẹ ruột,
Người gầy thày cơm.
Giết người không gươm,
Làm đĩ có tán,
Làm ơn nên oán,
Bớt giận làm lành.

Mắt toét ba vành,
Áo vá trăm trặng.
Ăn no vác nặng,
Cầy sâu quốc bầm.
Cháo đổ mặt mâm,
Chứng để đầu đẳng.
Đường xa dặm thẳng,
Tiếng cả nhà không.
Giết chó khuyên chồng,
Mài dao dạy vợ.
Ba làng bẩy chợ,
Chín đụn mười châu.
Máu chẩy ruồi bâu,
Giậu nát chó ỉa.
Của ăn căn để,
Cây cao lá dài.
Thở ngắn than dài,
An ngay nói thật.
Giời đánh thánh vật,
Ma chê quỉ hờn.
Ti-hí mắt lươn,
Xù-xì da cóc.
Chân răng kẽ tóc,
Gót chân đỉnh đầu.
Nét mặt sống trâu,
Móng tay mỏ sẻ,
Sác-sơ tổ đỉa,
Mầu-mỡ riêu cua.
Trốn chúa ở chùa,
Chọn người gửi của.
Ba vua bẩy chúa,
Nhất vợ nhì giời.
Vay chín giả mười,
Ngắn hai dài một.
Bùa mê bả dột,
Mặt nạc đóm dầy.