giác, nhiên bất tri tắc toại luân mai 知 來 本 無 知,覺 來 本 無 覺,然 不 知 則 遂 淪 埋; Tri ra vốn là vô tri, giác ra vốn là vô giác. nhưng không biết thì là chìm lấp mất.» (Ngữ-lục, III).
Cái tri ấy vô hình, vô ảnh, vô phương sở, nhưng không đâu là không có. Nó cứ tự-nhiên nhi nhiên mà chiếu ra. Dẫu che lấp thế nào cũng không làm mất đi được. Lương-tri ở trong tâm người ta, ví như cái ánh-sáng của mặt-trời ở trong không gian. Khi ta ngồi vào chỗ tối, ta tưởng là không có ánh-sáng nữa, nhưng kỳ thực nó vẫn vằng-vặc trong khoảng trời đất. Chỗ tối ấy là vọng-niệm, là tư-dục, nó chỉ che được cái sáng, chứ không làm mất được cái sáng. Vậy nên nói rằng: «Tuy vọng niệm chi phát, nhi lương-tri vị thường bất tại, đãn nhân bất tri tồn, tắc hữu thời nhi hoặc phóng nhĩ. Tuy hôn tắc chi cực, nhi lương-tri vị thường bất minh, đãn nhân bất tri sát, tắc hữu thời nhi hoặc tế nhĩ 雖 妄 念 之 發,而 良 知 未 嘗 不 在,但 人 不 知 存,則 有 時 而 或 放 耳.雖 昏 塞 之 極,而 良 知 未 嘗 不 明.但 人 不 知 察,則 有 時 而 或 蔽 耳: Tuy cái vọng-niệm phát ra. mà cái lương-tri chưa tầng không có, chỉ vì người ta không biết giữ cho còn, mới có lúc để buông sổng ra. Tuy cái mờ tối che lấp đến cực, mà cái lương-tri chưa tầng