Trang:Nho giao 1.pdf/215

Văn thư lưu trữ mở Wikisource
Trang này đã được hiệu đính, nhưng cần phải được phê chuẩn.

219
NHO-GIÁO


thì ta nên định rõ cái nghĩa hai chữ ấy của cổ-nhân nhiều ra thế nào.

Lễ 禮.— Chữ lễ trước tiên chi dùng để nói cách thờ thần cho được phúc, tức là chỉ có nghĩa cúng tế, thuộc về đường tôn-giáo mà thôi. Sau dùng rộng ra, nói gồm cả những qui-củ mà phong-tục và tập-quán của nhân-quần xã-hội đã thừa nhận, như: quan 冠, hôn 昏, triều 朝, sính 聘, tang 喪, tế 祭 , tân chủ 賓 主, hương ẩm tửu 鄉 飲 酒, quân lữ 軍 旅. Sau cùng chữ lễ lại có cái nghĩa thật rộng nói gồm cả cái quyền-bính của vua và cách tiết-chế sự hành-vi của nhân chúng. Cái nghĩa ấy bao-quát cả những việc thích-hợp với cái lẽ công-chính của đạo-lý và lẽ thích-nghi của sự lý. « Lễ giã giả, nghĩa chi thực giã. Hiệp chư nghĩa nhi hiệp, tắc lễ tuy tiên-vương vị chi hữu, khả dĩ nghĩa khởi giã 禮 也 者,義 之 實 也.協 諸 義 而 協,則 禮 雖 先 王 未 之 有,可 以 義 起 也: Lễ là cái thực của nghĩa. Hợp với các điều nghĩa mà hợp, thì lễ tuy tiên-vương chưa đặt ra, nhưng cũng có thể lấy nghĩa mà khởi sáng ra được ». (Lễ-ký: Lễ-vận, IX). Vậy lễ với lý và nghĩa là một, có thể lấy làm qui-củ cho sự hành-vi, có thể tùy thời mà thay đổi cho hay hơn, tốt hơn, không phải cố-chấp lấy cổ lễ cựu tục làm hạn. Chữ lễ hiểu nghĩa rộng như thế,