Trang:Nho giao Phu luc.pdf/50

Văn thư lưu trữ mở Wikisource
Trang này đã được hiệu đính, nhưng cần phải được phê chuẩn.

52
NHO-GIÁO


chữ trực-giác là thế cho nên mới nói lương-tri không phải là trực-giác.

Phan tiên-sinh hiểu như thế, song tôi hiểu cách khác. Tôi không theo cái nghĩa thường của chữ lương và chữ trực, bởi vì những chữ ấy thường hay đổi nghĩa đi, tùy cái ý của từng người dùng. Mạnh-tử khi dùng hai chữ lương-tri, đã định ngay nghĩa là: Sở bất lự nhi tri giả kỳ lương-tri giã, nghĩa là cái không nghĩ mà biết là lương-tri. Tuy Mạnh-tử theo cái thuyết của mình có dẫn chứng như: Đứa con nít mới đẻ ra biết yêu cha mẹ v.v.» nhưng đó là một cái chứng để cho người ta hiểu cái lương-tri, chứ không phải là chỉ biết cái lành mà thôi. Cũng bởi thế về sau đến đời Tống, đời Minh, những nhà triết-học như Lục Tượng-sơn, Vương Dương-minh đều cho lương-tri là cái biết tự-nhiên của bản tính. Nhất là Vương Dương-minh lại chú-trọng về cái thuyết lương-tri. Ngài nói rằng: «Tri thiện tri ác thị lương-tri». Theo cái nghĩa ấy thì hai chữ lương-tri không phải là chỉ biết riêng về điều thiện mà thôi. Có chỗ Dương Minh-tử lại cắt nghĩa rõ hơn nữa. «Lương-tri giả, Mạnh-tử sở vị thị phi chi tâm, nhân giai hữu chi giả giã. Thị phi chi tâm bất đãi lự nhi tri, bất đãi học nhi năng, thị cố vị chi lương-tri. Thị nãi thiên-mệnh chi