Trang:Nhu tay nhut trinh.pdf/17

Văn thư lưu trữ mở Wikisource
Trang này đã được phê chuẩn.
— 18 —

Tám muôn thước, bề ngang dài thược,
Còn bề dài, ước được vẹo ngoài. 410
Tàu đi thẳng thét một ngày,
Đến rằm mới thấy một dây núi dài.
Lìa Gia-định, tháng hai mồng chín,
Rằm tháng ba, thấy vịnh Toulon.[1]
Đi ba mươi sáu ngày tròn, 415
Ở chơi một bữa rồi còn phải đi.
Nhắm địa thế, đó thì hiễm trở,
Nội hướng nam, đây sở địa đầu.
Trên non cao, dưới biển sâu,
Xem đồn bảo rộng, thấy tàu bè to. 420
Ngó lần thấy trên bờ phố xá,
Xem kỷ coi sơn hạ lầu đài.
Đàng đi thẳng, phố cất dài,
Đàng thì lót đá, phố xây nhiều từng.
Trước thiềng thị, sau rừng cùng núi, 425
Trên phố phường, dưới suối với sông.
Núi xây quanh, biển chạy vòng,
Cản ngoài thì lủy, ngăn trong có thành.
Thấy nước biển, hoặc xanh hoặc lục,
Tại khí trời, khi đục khi trong. 430
Khi có gió, lúc nổi dông,
Lên vòi trắng xát, xuống vồng lặng trang.
Dinh tổng đốc, nhà tràng, tòa án,
Các nhà thờ, nhà quán, nhà thương.
Ụ tàu, kho súng, khám đường, 435
Thảy coi khéo léo từ trong tới ngoài.
Vườn nhà nước, cỏ cây xinh thật,
Chỗ mả mồ, đá đất xen nhau.
Người nghèo khó, kẻ sang giàu,
Ban sơ chưa chắc, đáo đầu mới hay. 440
Đời nhiều kẻ ham vì danh lợi,
Thế ít người tưởng tới ngãi nhân.
Thành nầy năm vạn ngoài dân,
Buôn dầu, cây, ngói; bán than, đá, đàng.
Tàu mới tới, cờ vàng liền kéo, 445
Cho kẻ đau, đặng hiểu phải chờ.


  1. Toulon = Tu-lôn