Trang:Nhu tay nhut trinh.pdf/34

Văn thư lưu trữ mở Wikisource
Trang này đã được hiệu đính, nhưng cần phải được phê chuẩn.
— 35 —

Hai bên lối chỗ ngừng xe, 1055
Bên thì nhà quán, bên thì nhà tiêu.
Ngừng một khắc có nhiều kẻ xuống,
Nhắm hai bên ý muốn bên nào.
Trên rộn rộn, dưới ào ào,
Lộn lên lộn xuống lộn vào lộn ra. 1060
Xuống xe phải coi qua chữ số,
Lên lầm rồi không chổ nằm ngồi.
Tám mươi muôn thước đàng dài,
Sáng đêm thấy tới, sánh tài tên bay.
Mười giờ sáng mồng mười xe đến,[1] 1065
Trần-nguơn-Hanh ra bến ngóng trông.
Bịch khăn nhiểu, bận áo lông,
Mắt mang kiến trắng, chơn tròng giày đen.
Xe ngừng máy ta liền nhảy xuống,
Bấy lâu nay lòng muốn gặp nhau. 1070
Gặp nhau mừng biết chừng nào,
Đem nhau về quán đặng vào nghỉ ngơi.
Cùng nhau kể việc đời dời đổi,
Phải theo thời sớm tối nắng mưa.
Coi đời nay, xét thuở xưa, 1075
Tối rồi kế sáng kế trưa lẽ thường.
Muốn biết đặng các đường sá hết,
Lấy địa đồ xem xét hẳn hòi.
Coi lần chỗ phải đi coi,
Gần thời coi trước, xa thời coi sau. 1080
Dưới sông có những tàu đò nhỏ,
Đưa rước người đầu nọ cuối kia.
Đã nệm lót, lại màn che,
Khắp nơi khéo dọn, mọi bề sạch trơn.
Không hút thuốc ngồi trong chuyện vản, 1085
Muốn thung dung lên thẳng từng trên.
Mười lăm chỗ bến hai bên,
Chiếc đi mười phút, chiếc bèn tới nơi.
Xa gần cũng cứ đòi một giá,
Trả tiền rồi xuống đó tới lên. 1090
Trên bờ xe chạy liền liền,
Cái chung nhiều kẻ, cái riêng ít người.


  1. Mồng mười tháng năm = 17 juin.