Trang:Nhu tay nhut trinh.pdf/9

Văn thư lưu trữ mở Wikisource
Trang này đã được phê chuẩn.
— 10 —

Học trò nói, bắt thèm cơm quá, 105
Bèn dắc vào, quán xá ăn chơi,
Ngồi ăn gẫm nghĩ nực cười,
Đói chi cơm bữa, no hơi bánh mì.
Gạo hồi đó, phen bì với ngọc,
Cơm lúc nầy, sánh được bằng vàng. 110
Đoái nhìn tàu đậu dăn dăn,
Tải hàng lên xuống lăn xăn rộn ràng.
Tàu tạm ghé, lấy than xong hết,
Chiều mười ba, từ biệt Hạ-châu.[1]
Lấy neo rồi chạy êm ru, 115
Thấy trời với nước một màu trong xanh.
Ba ngày trọn, theo gành theo bái,
Sumatra, còn thấy đó hoài.[2]
Nội cù lao, sáu triệu người,
Mười lăm vẹo thước bề dài thẳng băng. 120
Be vẹo thước, bề ngang ngó múc,
Hai triệu dân, hàng phục Hollande.[3]
Dọc gành thấy đá sảng hoàng,
Nếu tàu phải đó tợ dường trứng sa.
Không dông gió, khi qua ngang đó, 125
Có mưa mây, nho nhỏ mát da.
Hôm nay buồn bả nhớ nhà,
Nhớ cha, nhớ mẹ, nhớ bà nhớ con.
Lên bòng lái, ngó mông biển rộng,
Thấy cá bầy, bay bổng xa khơi. 130
Sáng trăng, tịnh gió, thanh trời,
Ngó coi sắc nước có ngời xinh thay.
Nước biển tắm, thường ngày mát mẻ,
Da thịt săn, mạnh khẻo tứ chi.
Tắm đêm mới thấy dị kỳ, 135
Trên mình nước chảy giống gì sáng trưng.
Tối binh bộ, làng khang nằm trống,
Còn lính tàu, ngủ vỏng ngay hàng.
Chín giờ kèn thổi kêu ăn,
Năm giờ chiều lại cũng bằng thổi luôn. 140
Mười giờ tắt, đèn chong phòng ngủ,
Có lính canh, lính giữ nghiêm trang.


  1. 21 mars. —
  2. Sumatra = Xu-ma-tra. —
  3. Hollande = Hô-lăn. —