Trang:Phật Lục - Trần Trọng Kim.pdf/29

Văn thư lưu trữ mở Wikisource
Trang này đã được hiệu đính, nhưng cần phải được phê chuẩn.
— 25 —

Ưu-ba-li ở trong tăng chúng, giữ giới-luật rất kính-cẩn, được Phật khen là trì luật kiên-cố đệ-nhất. Sau khi Phật diệt-độ rồi, Đại Ca-diếp tôn-giả cử ông kết-tập bộ luật, gọi là Tỉ-ni 毘 尼 (Vinaya), tức là bộ Luật-tạng.

9. — Ra-hầu-la 囉 喉 羅 (Rahula). Ra-hầu-la là con Phật. Khi Phật thành đạo rồi về thăm quê nhà, cho Ra-hầu-la đi làm sa-di[1]. Đến năm 20 tuổi, Ra-hầu-la theo Xá-lị-phất thụ giới làm sa-môn. Ở trong tăng chúng thuở ấy, Ra-hầu-la là bậc trẻ tuổi mà chứng được a-la-hán quả và có tiếng là bậc tu « mật hạnh » đệ nhất, nghĩa là làm những việc vi-mật không ai biết được.

10. — A-nan-đà 阿 難 陀 (Ananda). A-nan-đà là em họ đức Thích-ca. Sách chép rằng ông sinh vào ngày đức Thích-ca thành đạo, rồi đến năm 20 tuổi, thì xuất gia theo Phật. Ông thường chầu-chực luôn ở cạnh Phật, cho nên trong các đệ-tử, ông là bậc đa-văn[2] đệ nhất.

Đến khi đức Thích-ca vào cõi Nát-bàn rồi, Đại Ca-diếp tôn-giả chờ cho ông chứng được a-la-hán quả, mới cử ông chủ việc kết-tập bộ Kinh-tạng. Ở đầu các mục kinh đều để câu khai mào là « Như thị ngã văn 如 是 我 聞: Ta nghe như thế này ». Việc kết-tập ở Vương-xá thành, là ông có công lớn.

Sau ông được Đại Ca-diếp truyền y bát cho làm tổ thứ nhì bên phái Thiền-tôn. Ông giáo-hóa được nhiều người ở vùng sông Hằng-hà, cho nên khi ông nhập diệt, vua hai nước đến tranh lấy thi-hài đem về thờ-phụng. Ấy đủ biết cái đức-vọng của ông thịnh lắm vậy.


  1. Sa di: Chú tiểu.
  2. Đa-văn: Nghe nhiều.