Trang:Phật Lục - Trần Trọng Kim.pdf/48

Văn thư lưu trữ mở Wikisource
Trang này đã được hiệu đính, nhưng cần phải được phê chuẩn.
— 42 —

III

CHƯ BỒ-TÁT

諸 菩 薩

Bồ-tát 菩 薩 là do tiếng phạm bồ-đề tát-đóa 菩 提 薩 埵 (bodhisattva) gọi tắt mà thành ra, tức là danh-hiệu của những người tu-hành đạo Phật đã thành-tựu[1], có thể giác-ngộ được hết thảy các loài hữu-tình chúng sinh, nhưng còn kém Phật một bậc, cho nên còn phải tu một kiếp nữa mới thành Phật. Người Tàu từ đời nhà Tống trở đi, thường hay gọi các vị Đại Bồ-tát là Đại-sĩ 大 士.

Các Đại Bồ-tát đối với trên thì cầu được đạo Phật, mà đối với dưới thì cầu giáo-hóa chúng sinh; bao giờ cũng nặng về tình mà thương muôn vật, cho nên cứ tùy từng loại mà hiện thân ra để cứu-độ chúng sinh. Cái tâm của Bồ-tát là đại-từ và đại-bi. Đại-từ là yêu-mến và tưởng-nhớ đến chúng sinh, hễ ai sở cầu điều gì yên-vui, thì tùy lòng nguyện của người ấy mà nhiêu-ích cho được cái sở cầu; đại-bi là thương-xót hết thảy chúng sinh phải chịu mọi điều khổ-não, ra sức chửng cứu phổ-độ[2]. Cái lòng của Bồ-tát quảng-đại như thế, cho nên mới phát tâm tế-độ chúng sinh, khiến cho các loài ở trong tứ-sinh[3] và tam-giới[4] khắp hết đều được giải-thoát.

Chư Bồ-tát, khi mới phát tâm, ai nấy đều phát bốn điều thề lớn sau này, gọi là tứ-hoằng-thệ 四 弘 誓:

1.— Chúng sinh vô-biên, thệ nguyện-độ 衆 生 無 邊,誓 願 度. Thề xin độ hết chúng sinh vô-biên. Ấy là lấy Khổ đế làm duyên mà phát thệ.


  1. Thành-tựu: Thành công, kết quả.
  2. Chửng-cứu phổ-độ: Cứu vớt và độ khắp cả chúng sinh.
  3. Tứ sinh: Bốn cách sinh là: ở trứng sinh ra, ở thai sinh ra, ở nước sinh ra, hóa mà sinh ra.
  4. Tam-giới: Ba cõi dục-giới, sắc-giới, và vô-sắc-giới.