Những kinh nói về đức Di-lặc Bồ-tát, có bộ Di-lặc bản kinh 彌 勒 本 經: Di-lặc thượng-sinh kinh 彌 勒 上 生 經, nói Ngài sinh lên cõi trời; Di-lặc hạ-sinh kinh 彌 勒 下 生 經, nói: Ngài sẽ sinh xuống trần-thế; Di-lặc đại-thành Phật kinh 彌 勒 大 成 佛 經, nói lúc Ngài sẽ thành Phật.
QUAN-THẾ-ÂM BỒ-TÁT
觀 世 音 菩 薩
Quan-thế-âm là một vị Đại Bồ-tát rất có lòng từ-bi hay cứu khổ cứu nạn, cho nên ở đâu đâu cũng thờ Ngài và tụng niệm đến danh-hiệu của Ngài. Ba chữ Quan-thế-âm 觀 世 音 có cái nghĩa rất sâu-sa, tỏ ra là trong thế-gian chỗ nào, lúc nào, cũng có tiếng kêu đau, kêu khổ, thật là đáng thương đáng xót. Nhờ có Phật và có Bồ-tát mở lòng từ-mẫn đem phép mầu-nhiệm mà cứu vớt chúng sinh, cho nên đạo Phật là đạo từ-bi bác-ái vô cùng.
Kinh Pháp-hoa nói rằng: Khổ não chúng sinh, nhất tâm xưng danh, Bồ-tát tức thì quan kỳ âm thanh, giai đắc giải-thoát. Dĩ thị danh Quan-thế-âm 苦 惱 衆 生 一 心 稱 名,菩 薩 即 時 觀 其 音 聲,皆 得 解 脫. 以 是 名 觀 世 音: Những chúng sinh bị khổ-não mà nhất tâm đọc đến tên Bồ-tát, tức thì Ngài xem âm thanh của chúng sinh mà độ cho được giải-thoát. Bởi thế gọi tên Ngài là Quan-thế-âm.
Đức Quan-thế-âm mà có cái danh-hiệu ấy là do một đức Phật đã thụ-ký cho Ngài, cho nên chính Ngài nói trong kinh Lăng-nghiêm rằng: « Về vô-số kiếp đời xưa có đức Phật ra đời hiệu là Quan-thế-âm Như-lai 觀 世 音 如 來. Ta đến trước Phật mà phát bồ-đề tâm. Phật dạy ta theo ba phép văn 聞, tư 思, tu 修, nghĩa là nghe lời giảng dạy, suy nghĩ về đạo lý và tu-hành mà vào tam-ma-đề (Samadhi). Phật khen ta chóng được viên-thông pháp-môn và tức thì ở ngay chỗ đại hội thụ-ký