Trang:Phật Lục - Trần Trọng Kim.pdf/6

Văn thư lưu trữ mở Wikisource
Trang này đã được hiệu đính, nhưng cần phải được phê chuẩn.

LỜI MỞ ĐẦU


Chữ Phật 佛 là tiếng gọi tắt chữ Phật-đà 佛 陀 dịch theo âm chữ phạm Bouddha. Lấy cái nghĩa chân-đế 眞 諦 là cái nghĩa chân-thực tuyệt-đối[1] mà xét, thì Phật là hoàn-toàn chân-tính, chân-như bất sinh, bất diệt, độc nhất vô nhị ở trong vũ-trụ. Cái chân-tính ấy thường gọi là Pháp-thân[2], tức là phần sáng tỏ thiêng-liêng, vạn vật nhờ đó mà có, rồi chung qui lại quay về đó. Theo cái nghĩa chân-đế ấy thì chỉ có một Phật chứ không có hai, nhưng lấy cái nghĩa tục-đế 俗 諦 là cái nghĩa luân-chuyển tương-đối[3] của sự báo-ứng biến-hóa mà người ta có thể hiểu biết được mà xét, thì Phật là giác-giả 覺 者, tức là cái danh-hiệu để gọi những bậc có trí-tuệ cực minh-triệt[4], cực cao-siêu, hiểu thấu hết thảy mọi sự mọi vật ở trong vũ-trụ. Những bậc ấy đã chứng được cái pháp-thân chân-thực, vượt qua khỏi cuộc luân-hồi biến hóa, và lại đem sự hiểu biết của mình mà tuyên truyền ra để tế-độ chúng sinh, cứu vớt các giống hữu-tình[5] ở chốn hôn-mê, đưa sang bến giác-ngộ yên-lặng.

Theo cái nghĩa « tục-đế » ấy, thì Phật không phải là cái danh-hiệu để gọi riêng một vị nào, nhưng để gọi chung hết thảy những bậc đã tu thành chính quả viên-mãn, không sót chút gì là mờ-đục ngại-trở và không mắc tí nào vào trong sự biến-hóa vô-thường nữa.

Vậy theo « chân-đế », thì ở trong vũ-trụ chỉ có một pháp-thân, mà theo « tục-đế » thì cái Pháp-thân biến hiện ra nhiều


  1. Tuyệt-đối: Cùng tột, không có gì sánh ngang được.
  2. Pháp-thân: Cái thân thuần là lý, không có sắc, không có tướng.
  3. Tương-đối: Sánh ngang cái nọ đối với cái kia.
  4. Minh-triệt: Sáng suốt.
  5. Hữu-tình: Giống sinh vật có cảm-giác.