Trang:Phat giao dai quan.pdf/15

Văn thư lưu trữ mở Wikisource
Trang này đã được hiệu đính, nhưng cần phải được phê chuẩn.
— 13 —

dòng-giống nhà Phật, « mâu-ni » là người tu-hành: « Thích-già mâu-ni » nghĩa là người tu-hành về giống Thích-già. Tên Cồ-đàm mới thật là tên họ của Phật. Phật còn nhiều tên và hiệu khác nữa, như Thế-tôn 世 尊, Như-lai 如 來, Thiện-thệ 善 逝, Thế-gian-giải 世 間 解, v.v., mỗi tên có một nghĩa hay là một tích riêng. Nhưng chỉ có hai tên Thích-già và Cồ-đàm là thông-dụng hơn cả. Đạo Phật chia ra hai tôn lớn: một là Bắc-tôn, hay là Đại-thừa (大 乘, Mahayana), tức là đạo Phật của các nước về phương Bắc, như Bắc-Ấn-độ, Tây-tàng, Tàu, Nhật-bản, Cao-ly và An-nam ta theo; một là Nam-tôn hay là Tiểu-thừa (小 乘, Hinayana), tức là thuộc về các nước phương Nam, như đảo Tích-lan (Ceylan), nước Diến-điện, Xiêm-la, Cao-miên theo. Bắc-tôn thời thường dùng tên Thích-già; Nam-tôn thời thường dùng tên Cồ-đàm. Nam-Bắc hai tôn không những khác nhau thế mà thôi, đến sự-tích Phật, nghĩa-lý đạo, cũng nhiều chỗ trái ngược nhau. Nay tôi thuật đây là châm-chước cả hai tôn, không có thiên về một bên nào.

Theo trong sách Phật thời Phật-tổ Thích-già mấy kiếp trước tu-hành đã đắc-đạo, được lên bậc bồ-tát, thác-sinh ở cõi Đâu-suất-đà (兜 率 陀, Tushita), là nơi các Thiên-thần ở. Có Phật kiếp trước tên là Phật Đĩnh-quang (錠 光, Dipankara) báo-ứng cho Bồ-tát biết rằng kiếp sau sẽ xuống làm người dưới trần-gian, tu-hành mãn-đạo, rồi được thành Phật, để cứu-tế cho muôn loài. Từ lúc còn ở cõi Đâu-suất-đà cho đến lúc xuống trần thành Phật, thời Phật-mới[đính chính 1] còn là bồ-tát, vậy ta cứ gọi là bồ-tát. Bồ-tát từ khi được Phật Đĩnh-quang báo-ứng cho thế thời sắp-sửa thác-sinh xuống trần. Trước hết còn phải

  1. Sửa: Phật-mới được sửa thành Phật mới: chi tiết