Trang:Phat giao dai quan.pdf/85

Văn thư lưu trữ mở Wikisource
Trang này đã được hiệu đính, nhưng cần phải được phê chuẩn.
— 83 —

10° tri (知 = djnyâna), nghĩa là thấu biết mọi lẽ. — Mười « ba-la-mật » ấy là thuộc về tinh-thần tâm-tính; thuộc về sự hành-vi bề ngoài thời lại phải cho đủ « thập-nhị-đầu-đà (十 二 頭 陀 = dhutânga), như sau này: 1° phải ở nơi biệt-tịch vắng-vẻ; 2° phải hành-khất mà ăn; 3° hành-khất phải đi lần-lượt từng nhà; 4° hành-khất phải theo phép trong luật-tàng đã định; 5° ăn uống phải tiết-độ ; 6° đương khi ăn, sau khi ăn, không được uống rượu; 7° phải mặc bằng đồ rẻ rách; 8° áo chỉ được ba manh; 9° phải ở những nơi tha-ma mộ-địa; 10° phải nghỉ dưới cây; 11° chỉ được ngồi trên đất; 12° ngủ phải ngồi không được nằm. — Mười-hai « đầu-đà » ấy cũng tức là một cách thi-hành khổ-hạnh, tuy không nghiêm-khắc lắm như những phép khổ-hạnh của những phái khác đồng-thời với Phật nhưng trong đạo Phật cũng đã cho là nặng và khó lắm rồi.

Coi như thế thời những phép tu-hành cho những người đã xuất-gia thụ-giới kể cũng khó-khăn phiền-nặng lắm, không phải là sự tầm-thường dung-dị vậy. Ấy là mới kể qua-loa ngành-khái cho biết đại-ý mà thôi, chớ nói cho tường còn nhiều lắm nữa. Nhưng ở những nơi chùa-chiền ngày nay, còn đâu là theo được đủ các giới các phép ấy? Họa may ở các chùa ở Tích-lan (Ceylan), Diến-điện (Birmanie), bọn tăng-chúng còn giữ được ít nhiều kỷ-luật xưa, chớ ở các nước thuộc về Bắc-tôn, theo Đại-thừa-Phật-giáo, thời luật-giới xao-nhãng đã lâu lắm vậy.