cũng được, nhưng cũng phải đối nhau, gọi là câu cách-cú. Tỉ dụ:
Thầy chắc hẳn văn-chương có mực, lễ thánh xem giò;
Cô mừng thầm mũ áo đến tay, gặp người nói mộng.
Hay: Ngày đi lễ phật, còn kỳ này kỳ nữa là xong;
Đêm dậy vái trời, qua mồng bốn mồng năm cho chóng.
d) Cũng có khi không đặt những câu cách-cú thì đặt những câu dài mỗi vế 3 đoạn, gọi là câu gối hạc. Tỉ dụ:
Khi đắc thế thời đất nắm nên bụt, nghe hơi khá xăm-xăm chen gót tới, đen ngỡ đàn ruồi;
Lúc sa cơ thời rồng cũng như run, xem chiều hèn xanh-xảnh rẽ tay ra, nhạt (lạt) như nước ốc.
II. Cách kết-cấu bài phú
Nội-dung bài phú cũng tựa bài thơ, cũng có phá, thừa, thực, luận và kết.
a) Vần đầu là vần lung nghĩa là nói lung động ý nghĩa đầu bài lên trước.
b) Vần thứ hai là vần biện nguyên phải nói nguyên-ủy gốc-tích cho rõ ý đầu bài.
c) Vần thứ ba là vần thích thực phải tả hết ý nghĩa đầu bài.
d) Vần thứ tư là vần phu diễn suy rộng ý đầu bài ra.
e) Rồi từ vần sau trở đi thì nghị luận mà tổng kết lại.
III. — Các lối phú
Các thể-thức kể trên này là nói riêng về lối Đường phú (tự đời Đường đặt ra) là lối thông-dụng nhất.
Lại còn nhiều lối khác nữa: hoặc tự đầu chí cuối dùng toàn 4 chữ (phú tứ-tự) hoặc toàn 7 chữ (phú thất-tự) như lối thơ tràng-thiên; hoặc theo điệu Sở-từ cứ mỗi câu dăm sáu chữ đệm một chữ hề vào cuối câu; hoặc dùng điệu lưu-thủy (nước chảy), cách đặt để trôi chảy tựa văn xuôi, không bó buộc vào số chữ số câu như bài phú Xích-bích chữ nho của ông Tô-đông-Pha vậy.
VĂN-TẾ
Văn-tế là một bài đọc lúc tế một người chết để kể tính nết công đức của người ấy mà tỏ tấm lòng kính trọng thương tiếc của mình.
Văn-tế hoặc làm theo lối Đường phú (như trên), hoặc theo lối lưu-thủy hay lối văn xuôi như các bài điếu-văn bây giờ cũng được.