TỨ-LỤC
Lối tứ-lục tương-tự như lối phú, nhưng không có vần, thường hay đặt câu cách-cú, hoặc trên 4 dưới 6, hoặc trên 6 dưới 4 (bởi thế gọi là tứ-lục), nhưng muốn đặt dài hơn nữa cũng được.
Văn tứ-lục thường dùng làm những bài chiếu, biểu, chế, sắc. Chiếu là lời vua thi lệnh; ân-chiếu là lời vua ban ra khi có khánh-hỉ, hay để ra ân cho kẻ phạm tội hay kẻ bị hoạn-nạn; di-chiếu là lời vua dặn lại lúc thăng-hà. Chế, sắc là lời vua phong thưởng cho các quan hoặc bách (bá)-thần. Biểu là lời thần dân dâng lên vua; biểu hạ là lời mừng vua khi có khánh-tiết (nguyên-đán, vạn-thọ, vân vân); biểu tạ là lời tạ ơn vua khi được phong thưởng.
Lời chiếu sắc phải làm ra giọng nghiêm-trang điển-nhã; lời biểu làm ra giọng khiêm-tốn thù-phụng.
103 — BÀI CHIẾU CỦA ĐỨC MINH-MỆNH[1] KHUYÊN RĂN THẦN DÂN VỀ LÚC ĐẦU NĂM
Chiếu rằng, trẫm nghe:
Kinh Lễ có lời « bố chính » 1 về tháng giêng,
Kinh Dịch có câu « thân mệnh » 2 ở quẻ Tốn.
Bởi thiên đạo sinh sinh không hết, đông lại sang xuân;
Nên nhân-quân chăm chút không quên, sau lo tự trước.
Vậy câu « Sắc thiên » 3 nói ở trong Thuấn-điển 4, phải kính từng việc từng giờ;
Nay lời « kinh thế » 5 bày ở trong Cơ-trù, 6 phải đem làm khuôn làm phép.
Kính nghĩ đứng Hoàng-khảo Thế-tổ Cao-hoàng-đế 7 ta:
Thông minh bẩm tính,
Trí dũng kiêm toàn.
Đánh một trận nên nghiệp gian nan, « mao việt » 8 mở cơ-đồ dằng-dặc;
Mưu trăm năm lo đường nối dõi, « thạch quân » 9 đủ phép tắc rõ ràng.
- ▲ Mạng.