Niên-hiệu Khai-thái 5, sung chức tư-nghiệp, trông nom việc dạy thái-tử, làm mô-phạm cho bọn học-trò, danh tiếng thật là vòi-vọi! Triều vua Thiệu-phong 6, giận kẻ quyền-thần, dâng sớ xin chém bảy đầu, làm rùng mình cả bọn gian-nịnh, trung nghĩa thật là chói-lọi! Nói vua không nghe, liền xin từ chức, lui về làng cũ, vui vẻ núi non. Sau lại vời cho làm quan không chịu làm. Vì đã rõ thời-cơ thế-cục, không chịu đổi tiết thơm lấy công-hầu.
Than ôi! Đời thánh-hiền đã xa, không có ông làm gương thì kẻ học-giả lấy ai làm Thái-sơn 7? Thói liêm-sỉ đã tệ, không có ông cao-thượng thì kẻ sĩ-phu lấy ai làm nêu cột? Ông lúc mất đặt hiệu là Văn-Trinh thật không phải là hư-danh vậy. Nghìn năm phụng thờ thật là sứng đáng! Tuy vậy thói hay của ông cùng với sông Thanh-đàm còn chảy dài mãi, khí thiêng của ông cùng với núi Chí-linh còn cao ngất mãi. Trăm đời về sau hương thơm không dứt, há còn phải dựng bia đá nữa ru? Song mấy hàng chữ này khắc vào đá vững thì đạo-đức, sự-nghiệp, thanh-danh, khí-tiết của ông lại càng rõ rệt thêm, khiến cho người sau mắt thấy phải mộ phải theo, phải sùng phải ngưỡng, một để khích bụng liêm-sỉ, một để sửa thói siểm-nịnh. Thế thì dựng miếng bia này cũng có quan-hệ đến việc răn đời, cho nên chép.
(Dịch bài nguyên-văn chữ nho của ông Nguyễn-công-Thái).
Ông Nguyễn-công-Thái, đỗ (đậu) tiến-sĩ, làm quan giám-sát tỉnh Nghệ-an đời Lê. Bài văn bia này làm năm Vĩnh-Thịnh thứ ba (1707) đời vua Lê Dụ-tôn.
CHÚ THÍCH. — 1. Nay là huyện Thanh-trì tỉnh Hà-đông. — 2. Là những đời vua Trần Minh-tôn, Hiến-tôn, Dụ-tôn và Nghệ-tôn. — 3. Núi Chí-linh ở tỉnh Hải-dương; sau khi ông về trí-sĩ, ông làm nhà ở đấy. — 4. Văn-miếu nguyên thờ đức Khổng-tử, các bực tiên-hiền cao-sĩ thường được thờ kèm ở đấy, gọi là tùng-tự. — 5. Niên-hiệu vua Trần Minh-tôn (1324-1329). — 6. Niên-hiệu vua Trần Dụ-tôn (1341-1358). — 7. Thái-sơn là một trái núi cao có tiếng bên Tàu; đây nói bóng là cái mô-phạm tôn-nghiêm cho người ta ngưỡng-vọng.