Bước tới nội dung

Trang:Quoc van trich diem 1930.pdf/59

Văn thư lưu trữ mở Wikisource
Trang này cần phải được hiệu đính.
39
HỢP THÁI

50. — GIÃ VỢ NHÀ ĐI LÀM QUAN

Phan-thanh-Giản

Cụ người tỉnh Bến-tre trong Nam-kỳ, làm quan triều Tự-Đức; hồi quân Pháp đánh lấy 3 tỉnh phía đông Nam-kỳ, cụ thương-thuyết ký tờ hòa-ước, sau lại sang sứ bên Pháp, về được cử làm Kinh-lược sứ ba tỉnh phía tây. Đến năm 1867, quân thuyền Pháp tiến đến tỉnh thành Vĩnh-long định sự lấy nốt ba tỉnh ấy, cụ biết thế không chống nổi bèn nộp thành-trì cho quân Pháp, rồi uống thuốc độc tự tử. — Cụ đậu tiến-sĩ, là một nhà văn học có tiếng trong lục tỉnh. Thơ văn chữ hán của cụ in thành « Tập Lương-khế ». — Bài này là lúc cụ từ giã nhà đi làm quan soạn ra.

Từ thuở vương xe mối chỉ hồng,
Lòng này ghi tạc có non sông!
Đàng mây cười tớ ham giong-ruổi,
Trướng liễu thương ai chịu lạnh-lùng.
Ơn nước nợ trai đành nỗi bận,
Cha già nhà khó cạy nhau cùng.
Mấy lời dặn bảo cơn lâm-biệt,
Rằng nhớ rằng quên, lòng hỡi lòng!

51. — VỊNH KIỀU

Phạm-quí-Thích

Cụ hiệu Lập-Trai, người làng Huê-đường, tỉnh Hải-dương, đậu tiến-sĩ đời Lê Cảnh-Hưng, ra làm quan lúc Lê mạt. Sau lúc đức Gia-Long bình định xong, có vời cụ ra làm quan, cụ cáo bệnh không được, mãi sau mới được từ về. Cụ dạy học-trò nhiều người thành đạt như các ông Nguyễn-Lý, Nguyễn-Siêu đều là học-trò cụ. Cụ có một tập thơ chữ truyền lại: Thảo-đường thi-tập. Chính cụ đã xuất bản đầu tiên quyển Truyện Kiều (bản Phường) và có sửa đổi một vài chỗ.

TIỂU DẪN. — Cụ nguyên là bầy tôi nhà Lê sau lại ra làm quan với Bản-triều, cụ mới mượn thân-thế nàng Kiều mà giãi bày tâm-sự của cụ, nên bài thơ này hay, mà trong biết bao nhiêu bài vịnh Kiều, bài này truyền tụng nhất. Bài này là dịch nghĩa bài thơ chữ Hán của cụ thường in ở đầu các bản truyện Kiều nôm.

Giọt nước Tiền-đường chẳng rửa oan,
Phong-ba chưa trắng nợ hồng-nhan.