Trang:Quoc van trich diem 1930.pdf/87

Văn thư lưu trữ mở Wikisource
Trang này cần phải được hiệu đính.
67
ÔN-NHƯ-HẦU

Phong-trần đến cả sơn khê,
Tang-thương đến cả hoa kia cỏ này!
Tuồng ảo (hoản) hóa đã bày ra đấy,
Kiếp phù-sinh trông thấy mà đau.
Trăm năm còn có gì đâu,
Chẳng qua một nấm cổ khâu xanh dì!
Mùi tục-lụy dường kia cay đắng,
Vui chi mà đeo đẳng trần-duyên!
Cái gương nhân sự chiền-chiền,
Liệu thân này với cơ-thuyền 10 phải nao!
Ngày mượn thú tiêu-dao cửa Phật,
Mối thất tình quyết dứt cho xong!
Đa mang chi nữa đèo bòng,
Vui gì thế-sự mà mong nhân-tình!
Lấy gió mát trăng thanh kết nghĩa,
Mượn hoa đàm đuốc tuệ 11 làm duyên.
Thoát trần một gót thiên-nhiên,
Cái thân ngoại vật là tiên trong đời.

CHÚ THÍCH. — 1. Bào-ảnh: cái bọt, cái bóng, ví với đời người nhỏ mọn mà hư không; chiếc thuyền bào-ảnh là nói thân-thế người ta. Câu này ý nói cõi đời nhiều nỗi hiểm ngoèo, khác nào như sóng cồn cửa bể, mà thân con người ta lênh đênh trôi nổi trong đó, khác nào như chiếc thuyền thấp-tho ở mặt ghềnh. — 2. Lò cừ: cái lò lửa lớn. Đây ý nói trời đất xoay xỏa sự đời như cái lò lửa lớn nung nấu. — 3. Vân cẩu: mây, chó; đương mây trắng mà biến ra hình chó xanh, biến đổi không thường. Tang thương: dâu, bể; đương bể xanh mà hóa ra nương dâu, cũng là cuộc biến đổi không thường. Đây ý nói con người ta sống chết vinh nhục không thường như nét vẽ trong bức tranh thay hình đổi giạng luôn. — 4. Nhân ảnh: bóng người; tà-dương: ánh sáng mặt trời về chiều. Đây ý nói bắt con người đương trai trẻ khỏe mạnh mà không mấy chốc trở nên ốm yếu già nua. — 5. Xem câu chú-thích (1) về bài thơ Tát nước ở trang 25. — 6. Hoạn: là quan. Làm quan lúc thăng lúc giáng, lúc vinh, lúc nhục, như chìm nổi trong bể khơi, nên gọi là bể hoạn. 7. Mộc thạch: cây đá; kim cổ: đời nay đời xưa. Đây nói qua đời xưa đến đời nay biết bao là cây vàng đá ố. — Cầm ngư: chim cá; vũ, phong: mưa, gió. — Đây nói chim cá cũng có lúc phải mưa gió làm cực khổ. —