Trang:Quoc van trich diem 1930.pdf/96

Văn thư lưu trữ mở Wikisource
Trang này cần phải được hiệu đính.
76
NGÂM

Oanh đôi thẹn dệt, bướm đôi ngại thùa,
Mặt biếng tô, miệng càng biếng nói,
Sớm lại chiều ròi-rõi nương song.
Nương song luống ngẩn-ngơ lòng,
Vắng chàng điểm phấn trang hồng với ai.
Biếng trang điểm lòng người sầu tủi.
Xót nỗi chàng ngoài cõi Giang-lăng.
Khác gì ả Chức chị Hằng,
Bến Ngân sùi-sụt, cung trăng chốc mòng.

CHÚ THÍCH. — 1. Nàng Tô-Huệ là vợ Đậu-Thao. Thao phải đi thú phương xa, nàng làm bài hồi-văn dệt chữ vào gấm, dâng vua xin cho chồng về — 2 Tục bói lấy đồng tiền gieo quẻ. — 3. Bởi câu thơ cổ: trước sân chim thước kêu là điềm tốt báo tin cho biết nhà có người đi xa sắp về. — 4. Ý nói: chỉ có ngọn đèn để làm bạn. — 5. Yên là đất Yên, ngoài ải, gần với rợ Hồ, chỉ nơi chồng đánh giặc ở đấy. — 6. Tiếng sâu kêu. — 7. Nữ công là công việc của người đàn bà như thêu, dệt, may, vá, v.v.; phụ xảo: là nghề khéo của đàn bà.

NGUYỄN-DU 阮 攸 (1765 - 1820)

Ông người làng Tiên-điền, huyện Nghi-xuân, tỉnh Hà-tĩnh. Tổ-tiên nhà ông đời đời làm quan với nhà Lê. Ông có khí-tiết, gặp loạn Tây-sơn, không chịu ra làm quan. Năm Gia-Long nguyên-niên (1802), ngài vời mãi mới ra làm Tri-phủ Thường-tín (Hà-đông). Năm thứ 8 ra làm cai-bạ Quảng-bình. Năm thứ 12, thăng lên Cần-chính-điện học-sĩ sung làm chánh-sứ sang cống bên Tàu. Đến khi về thăng Lễ-bộ hữu-tham-tri. Năm Minh-Mệnh nguyên-niên (1820) lại có mệnh sang sứ Tàu, nhưng chưa đi thì ông mất.

Ông giỏi nghề văn-chương mà quốc-văn lại hay lắm. Hồi gặp loạn Tây-sơn, ông không ra làm quan, chỉ lấy chơi bời săn bắn lám vui, trong 99 ngọn núi Hồng-sơn không chỗ nào chân ông không đi đến. Khi đi sứ Tàu về, ông có soạn một bộ Bắc-hành thi-tập và quyển truyện Thúy-Kiều (nguyên nhan là Đoạn-trường tân-thanh).

TRUYỆN THÚY-KIỀU

Truyện Thúy-Kiều nguyên ông Nguyễn-Du phỏng theo một bản tiểu-thuyết Tàu mà làm ra. Song không phải ông dịch y như nguyên-văn; ông chỉ phỏng theo cái cốt truyện của Tàu mà cách bố-cục,