Trang:Sach quan che.pdf/71

Văn thư lưu trữ mở Wikisource
Trang này cần phải được hiệu đính.
— 72 —

PHU, HUYỆN

Tri phủ, tri huyện, tri châu; huyện, châu, thổ quan.

1 Tỉnh hay 4, 5 phủ; 1 phủ lảnh 3, 4 huyện; chỗ thổ dân đông, đặt thổ tri huyện, thổ tri châu, cũng đều tùng phủ.

Như tỉnh Gia-định có 4 phủ, 9 huyện. Như phủ Tân-bình, thì lảnh Bình-dương, Tân-long, Phước-lộc, Bình-long bốn huyện. Huyện Bình-dương là chỗ lập phủ nha, thì không đặt quan, để cho phủ kiêm lý.

Phủ có tri phủ; có phân phủ, nghĩa là phủ lớn địa phận mà chia ra, lại có phủ húy.

Bên Trung-quấc, chức tri phủ tùng tứ phẩm, có đồng tri, phủ thằng, thông phán, kinh lịch chia nhau đổng việc trị lý, việc binh lương, thuế khóa, từ tụng vân vân.

Phủ huyện phân ra có xung, phiền, bì, nạn bốn hạng.

Chữ xung ấy chỉ nghĩa là ở gần kinh thành, dinh trấn cùng các đạo, công việc sai dịch nặng nề, hoặc ở dọc núi biển hiểm trở, trộm cướp nhiều, hoặc ở gần quan lộ, hoặc chỗ nước non, phải tu kiều bồi lộ công việc nhiều lắm.

Chữ phiền ấy chỉ nghĩa là ở chỗ đất rộng, người đông, việc binh lương số bội, nặng việc thôi đốc, hoặc nhằm chỗ hay kiện thưa, án từ rối rắm, khó việc tra xét.

Chữ bì ấy chỉ nghĩa là ở chỗ đất xấu, phèn sỏi, làm nghề ruộng rẩy ít được; hoặc nhằm chỗ khô khan, trầm thủy, hễ có hạn, có lụt ít nhiều, liền phải tổn hại; lại trong các làng xa nhơn dân phải lưu lạc, thuế vụ, công sưu không đủ.

Chữ nạn ấy chỉ nghĩa là chỗ có nhiều dân du thủ, chẳng lo việc làm ăn, nuôi chứa trộm cướp; thói dân ngoan ngạnh, hay