Trang:Tục ngữ, cổ ngữ, gia ngôn.djvu/56

Văn thư lưu trữ mở Wikisource
Trang này cần phải được hiệu đính.
— 54 —
  1. Nhĩ vi nhĩ ngả vi ngả.
    Mầy là mầy, ta là ta. Nghĩa là ai có phần nầy, không can tới nhau.
  2. Nhiều tay vỗ nên bột.
    Đông người thì làm đặng việc.
  3. Nhiều sãi, không ai đóng cữa chùa.
    Chàng ràng không có người chủ việc.
  4. Nhiều thóc nhọc xay.
    Nhiều lúa thì mất công xay ; đa mang nhiều việc thì nhọc lòng lo.
  5. Nhờ lụt đẩy rều.
    Thừa thế mà làm hay là nhơn việc nọ mà đẩy đưa việc khác.
  6. Nhơn bất tri cổ kim, như mã ngưu nhi khâm cứ.
    Con người chẳng biết việc xưa nay, cũng như con trâu con ngựa bận áo. Con người ta không biết học thì khác trâu ngựa có một sự có quần có áo.
  7. Nhơn bất tri kỳ tử chi ác, bất tri kỳ miêu chi thạc.
    Kẻ làm cha mẹ chẳng biết thửa lỗi con ; kẻ làm ruộng chẳng biết lúa mình vượt tược. Ấy là nịch ái bất minh, tham đắc vô yểm.
  8. Nhơn các hữu chí.
    Mỗi người đều có chí riêng, như chí làm quan, làm giàu, vânvân.
  9. Nhơn chi tương tử kì ngôn dã thiện, điểu chi tương tử kì minh dã ai.
    Con người gần chết thì lời nói nghe ra hiền lành ; con chim gần chết thì tiếng kêu nó bi thương.
  10. Nhơn khổ bất tự tri.
    Người ta có đều ngặt là không biết dường sức mình, ấy là bịnh chung trong thiên hạ.
  11. Nhơn cùng tắc biến, vật cực tác phản.
    Thường hiểu biến ấy là sanh thế, còn phản ấy thì là trở trái, như cứng lắm thì gãy, lại như chó túng thì cắn, ngựa túng thì đá, chim túng thì mổ, người túng thì nói dối, làm hung ; song chính nghĩa chữ phản là phản hườn bổn tánh, như như nhơn chi tương tử kì mngôn giã thiện, vân vân.
  12. Nhơn nhơn thành sự
    Nhờ người làm nên việc, ấy là lời chê kẻ dở tài, chỉ đợi có người dìu dắc.
  13. Nhơn sanh thất thập cổ lai hi.
    Người ta sống bảy mươi tuổi thì là đều xưa nay ít có. Vậy thì chết bảy mươi đã không nên tiếc, mà sống chưa đặng bảy mươi cũng chẳng nên than.