Trang:Thi phap nhap mon.pdf/29

Văn thư lưu trữ mở Wikisource
Trang này đã được hiệu đính, nhưng cần phải được phê chuẩn.
— 27 —

Văn chương ta hay dụng tiếng trùng-đối cho êm lời nói:

Khi ăn khi nói dở-dang,
Khi thầy khi tớ, xem thường xem khinh.
Sanh càng như dại như ngây,
Dọt dài dọt vắn, chén đầy chén vơi.

(Đây lựa ít tiếng làm kiểu).
1 Đủ nghề đủ nghiệp, cung kép cung đào.
Vùi đầu vùi óc, bực bắc bực nam.
Đã lầm đã lỡ, làm vợ làm chồng.
Vào khuôn vào rập, sẳn kẹp sẳn trăng.
10 Té tiền té bạc, đỗi bực đỗi ngôi.
Hết hơi hết sức, ngó quất ngó quanh.
Dị hình dị dạng, mỏi cẳng mỏi chơn.
Lo hơn lo thiệt, hết sách hết vở.
Và tớ và thầy, cạo mày cạo mặt.
20 Bá vất bá vơ, cờ bơ cờ bấc.

Phép đặt vịnh ngâm thì là một cặp đối bảy chử, kế một cặp vản sáu tám. — Cặp đối giữ tam ngủ thất phân minh.

trắc, bình trắc,
bình, trắc bình.

Chìm đáy nước, cá lờ-đờ lặn,
Liện da trời, nhạn ngẩn-ngơ sa.
Hương trời đắm nguyệt say hoa,
Tây-thi mất vía, Hằng-nga giật mình.

Cặp đối lấy vận nơi chử thứ bảy trên với chử thứ năm dưới. — Có khi lấy vận tại chử thứ ba.

Chín lần gươm báu chống tay,
Nửa đêm truyền hịch định ngày xuất chinh.
Nước thanh bình, ba trăm năm cũ,
Aó nhung trao quan vủ từ đây.