Trang:Tieng quoc keu.pdf/3

Văn thư lưu trữ mở Wikisource
Trang này đã được hiệu đính, nhưng cần phải được phê chuẩn.

TIẾNG QUỐC KÊU

Nhời phủ đầu

Than ôi! rắn phun rết độc, đầy trời lừng mưa máu gió tanh; cọp lũ beo đàn, chật đất những gò xương núi xác. Nhái lớn nuốt nhái bé, cường-quyền chi luận lý công; bò trắng húc bò vàng, bác-ái còn đâu nhân-đạo? Ganh hơn đua kém, sóng rộn bể Âu; cướp lợi tranh quyền, bụi mù đất Á. Bồ-câu tranh tổ, lũ chim ri kém sức phải tan đàn; tu-hú đẻ nhờ, ổ sáo-sậu đã tan sao vẹn trứng. Ngựa dàm trâu ách, luống chịu vọt roi; cá chậu chim lồng, khôn hòng bay nhảy.

Những tưởng, sau khi bãi chiến, kèn kết hơi mà tiếng mõ cũng tắt hơi. Rắp mong, mở cửa tự do, húng đã mọc mà tía-tô cũng đua mọc. Ai ngờ, đít cuống vẫn cay, đuôi ong còn nọc; ma cà-rồng ham nhòm nhõi chốn buồng nhơ; cá nhà-táng những khua mò trong bể đục. Quỉ đế-chế giả đeo mặt Phật, mượn từ-bi mà cướp cháo chúng-sinh; thần tự-do lẩn khuất chân trời, khôn chen chúc để lên đàn phá ngục.

Coi cuộc đời thấy những gớm ghê; nghĩ vận nước thêm càng bực rọc! Quân Xích-vệ reo ầm phía bắc, bọn nông Nga đang độ muôn tụng hoành; hội Á-châu liên lạc cõi đông, người Nhật-bản đã mưu toan cầy cục. Sóng nọ chưa qua, sóng kia đã đến, thuyền lênh đênh chi khỏi lúc rơi trèo; cơn này chưa đỡ, cơn nữa lại lên, cây héo hắt chắc có phen nổi gốc.

Anh em ơi! nguy thay, nguy thay! cấp ạ, cấp ạ! lửa sắp cháy mày, nước gần tới gót. Bên thành lái lửa, cá trong ao chắc cũng vạ lây; xó bếp mài dao, thịt chốc thớt tránh sao sẻo cắt? Nếu chẳng xa lo sớm liệu, cửa tổ kia ràng lúc chưa mưa; sợ khi nhỡ bước sa chân, chết đuối lại vớ ngay phải bọt.