— 33 —
Đình-vi[1] cách mấy thu-xuân,
Tóc đầu khi đã lần-lần điểm bông.
Buồn trông lá chẩy xuôi giòng,
Đề thơ nhớ kẻ vườn hồng đợi xuân.[2]
Non non nước nước khơi chừng,
Ái ân hai chữ ai đừng quên ai.
Bơ-vơ dở khóc dở cười,
Mênh-mông dưới nước trên giời một ta.
Tầu đâu trông thấy nẻo xa,
Treo cờ chữ thập nghĩa là cứu tai.
Chủ tầu truyền ghé lại coi,
Đem suồng tới rước, quăng chài xuống quơ.
Lên tầu thuốc uống lửa hơ,
Kẻ đem cơm cháo người đưa áo quần.
Một ngày một mạnh dần dần,
Hỏi ra mới biết tầu tuần Ăng-lê.
Tiêu hao kể hết mọi bề,
Giời khi giông tố, thân khi hiểm nghèo.
Súm-quanh kẻ hỏi người kêu,
« Quê hương đâu tá rạt siêu thể này. »
Họ tên chàng mới nói ngay,
Chức quan, nghệ-nghiệp ngỏ bày một hai.