擬 向 武 陵 漁 子 問
Nghĩ hướng Võ-lăng ngư tử vấn
前 來 遠 近 種 桃 村
Tiền lai viễn cận chủng đào thôn,
Dịch:
Triêu-dương bóng rải khắp ngày xanh,
Hoa cỏ cười tươi đón rước mình.
Hái thuốc nào đâu sư kẽ suối,
Tìm nguồn duy có khách bên ghềnh.
Lang thang đất lạ đàn ba khúc,
Nênh nổi thuyền câu rượu một bình.
Bến Võ chàng ngư, tìm thử hỏi,
Thôn Đào chỉ hộ lối loanh-quanh.
Đề xong, trông ngắm thẫn-thờ, như có ý chờ đợi. Chợt thấy ở trên vách đá bỗng nứt toác ra một cái hang, hình tròn mà rộng độ một trượng. Vén áo đi vào, vừa được mấy bước thì cửa hang đã đóng sập lại, tối-tăm mù-mịt như sa vào cái vực đen tối. Bụng nghĩ không còn thể nào sống được nữa, lấy tay sờ-soạng lối rêu, nhận thấy có một cái khe nhỏ, quằn-quèo như cái ruột dê vậy. Đi mò độ hơn một dặm thì thấy có đường đi ngoi lên. Bám bíu trèo lên thì mỗi bước mỗi thấy rộng rãi. Lên đến ngọn núi thì bầu trời sáng-sủa, chung quanh toàn là những lầu đài nguy-nga, mây xanh ráng đỏ, bám ở lan can, cỏ lạ hoa kỳ, nở đầy trước cửa. Sinh nghĩ nếu không phải là chỗ đền-đài thờ-phụng, tất là cái xóm của những bậc lánh đời, như những nơi núi Sậu nguồn Đào[1] chẳng hạn. Rồi
- ▲ Xưa Tây-vực có núi Thiết-linh, hình như con chim Sậu, nên gọi tên như thế. Khi xưa Phật thường ở đấy. Nguồn Đào là chuyện người đánh cá đời Tấn tên là Hoàng Đạo-Chân, đi ngược dòng suối lạc vào một cái động trồng đầy hoa đào.