uôn, thì người ta lấy hai chữ cuối cùng làm vận-căn mà gieo vần, cho nên en, in vần với yên hay uyên; ân vần với uân; ơn vần với oan; on vần với uôn.
Khi có vần ghép bằng hai chữ nguyên-âm với hai chữ phụ-âm, như ương, thì người ta lấy ba chữ
cuối cùng làm vận-căn mà gieo vần, cho nên ang thông với ương. Song phải nhớ rằng uông thông được với ương, mà không thông được với ang, vì a không thông được với ô.
3. — Khi có vần ghép bằng hai hay ba nguyên-âm, thì người ta theo âm-điệu mà lấy một hay hai chữ nguyên-âm làm vận-căn, như: oa, oe, uê, uy, thì vận-căn ở chữ a, e, ê và y, cho nên oa vần với a, oe vần với e, uê vần với ê, uy vần với i. Uây thì vận-căn ở ây, cho nên uây vần với ây. Thí-dụ:
a, oa |
|
Lại càng ủ-dột nét hoa,
|
Sầu tuôn đứt nối châu sa vắn dài. (Kiều)
|
è, oè |
|
Dưới trăng quyên đã gọi hè,
|
Đầu tường lửa lựu, lập-loè đâm bông. (id)
|
ề, uê |
|
Buồng không để đó, người xa chưa về.
|
Lấy điều du học hỏi thuê... (id)
|
uy, ì |
|
Cứ trong mộng-triệu mà suy,
|
Phận con thôi có ra gì mai sau. (id)
|
ây, uây |
|
Dễ ai rấp thảm quạt sầu cho khuây.
|
Gần miền nghe có một thầy... (id)
|
Những vần ia, uya, ua, ưa, thì vận-căn lại ở chữ i, y, u, và ư mà chữ a đứng ở cuối tiếng không có ảnh-hưởng gì cả. Thí-dụ:
ì, ia |
|
Tiếng Kiều nghe lọt bên kia,
|
Ơn lòng quân-tử sá gì của rơi. (Kiều)
|