a) Câu lục. Tiếng thứ hai bằng, tiếng thứ tư trắc, tiếng thứ sáu bằng và vần.
Trăm năm trong cõi người ta,
Song khi có tiểu-đối, hay ba tiếng đi với nhau. thì tiếng thứ hai trong câu lục có thể là tiếng trắc:
Mai cốt-cách, tuyết tinh-thần.
Nền phú-quí, bậc tài-danh.
Hay là:
Đau-đớn thay, phận đàn-bà.
Người một nơi, hỏi một nơi.
b) Câu bát. Tiếng thứ hai bằng, tiếng thứ tư trắc, tiếng sáu bằng và vần, tiếng thứ tám bằng và vần:
Chữ tài, chữ mệnh khéo là ghét nhau.
Hai tiếng bằng thứ sáu và thứ tám nhất-định phải một tiếng bổng và một tiếng chìm, như: là với nhau, — đau với lòng, ở mấy câu thơ để làm mẫu ở trên.
Đó là luật bằng trắc nhất-định trong thể thơ lục-bát. Sai luật ấy là thất luật.
2. Vần. — Trong hai câu thơ lục và bát, câu lục chỉ có cước-vận ở chữ thứ sáu, mà câu bát thì có yêu-vận ở chữ thứ sáu và cước-vận ở chữ thứ tám.
Tiếng cuối câu lục vần với tiếng thứ sáu câu bát ở dưới. Tiếng cuối câu bát vần với tiếng cuối câu lục tiếp sau:
Trăm năm trong cõi người ta,
Chữ tài, chữ mệnh khéo là ghét nhau.
Trải qua một cuộc bể dâu,
Những điều trông thấy mà đau-đớn lòng.
Xem như thế, thì thơ lục-bát cứ phải có ba vần đi với nhau, một vần ở cuối câu bát, một vần ở cuối